Montag, 21. Januar 2019

"Càng im lặng


 Kế thừa VNCH" là đúng để mà có chính danh đòi lại chủ quyền HS- TS do Thế giới công nhận là của Việt Nam chứ không phải của Trung Quốc. Mà muốn như vậy là phải từ bỏ độc tài đảng trị và đưa ra sự việc Trung Quốc dùng vũ lực xâm chiếm HS 1974 và TS 1988 của Việt Nam ra trước tòa án Quốc tế, không biết nhà cầm quyền Việt Nam hiện giờ có dám khép lại quá khứ thù hận đã áp đặt lên con người dân Việt nam từ bấy lâu nay hay không.? Nếu dám là nước Việt Nam còn có những người chính trực dám từ bỏ quyền lực của mình để mà thay đổi cho một lá cờ mới thật sự "Tự do Dân chủ Đa nguyên xã hội trị". Chứ không phải là để tâng bốc một ông lãnh tụ Độc tài mới khác được. Một Kỷ nguyên mới là một Quốc gia Việt Nam mới với một ngọn cờ "Tự do Dân chủ Đa nguyên mới" để tránh sự xâu xé tranh giành thế lực trong thế giới của độc tài.
KN
Bây giờ, nước đến chân, qua các vụ chèn ép của Trung quốc, mọi người thấy đề nghị « kế thừa VNCH » là đúng.
Những nỗ lực vinh danh các chiến sĩ VNCH hy sinh trong trận chiến Hoàng Sa nhằm tạo thế « kế thừa VNCH » đều đáng khen, nhưng chưa đủ. Bởi vì VN hôm nay còn phải đoạn tuyệt với di sản của VNDCCH. Việc này chỉ có thể thực hiện bằng cách thức « hòa giải quốc gia và dân chủ hóa chế độ ».
Từ lâu tôi cũng nói rằng việc tranh đấu khẳng định chủ quyền biển đảo cũng là tranh đấu dân chủ hóa chế độ. Tôi xem rằng những người ý thức được việc cần thiết « kế thừa VNCH » như những kẻ « tri âm ». Thật vui mừng biết bao nhiêu ! Tìm được một người hiểu được mình không dễ.
Hy vọng kỹ niệm 40 năm ngày mất Hoàng Sa mọi người cùng suy nghĩ thêm. Công cuộc giữ nước, giữ vẹn toàn bờ cõi, biển đảo cũng là công cuộc tranh đấu dân chủ hóa chế độ.
Nhân 40 năm ngày Việt Nam mất Hoàng Sa : Thử xét ảnh hưởng việc mất Hoàng Sa trong vấn đề phân định hải phận ngoài cửa vịnh Bắc Việt.
Vấn đề chủ quyền Hoàng Sa chỉ mới được nhà cầm quyền CSVN thực sự quan tâm khi hai bên Việt Nam và Trung Quốc bắt đầu bước vào đàm phán để phân định biên giới biển khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Việt.
Ranh giới hai nước Việt-Trung trong vịnh Bắc Việt được phân định theo Hiệp ước ký kết ngày 30 tháng 12 năm 2000. Các thuơng thuyết để phân định vùng cửa vịnh có lẽ bắt đầu từ những năm đầu thiên niên kỷ thứ ba. Yếu tố quan trọng nhất trong việc phân chia vùng cửa vịnh Bắc Việt, giữa bờ biển miền Trung Việt Nam và bờ biển đảo Hải Nam của Trung Quốc, là hiệu lực các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa.
Lập trường của TQ từ nhiều thập niên nay là không nhìn nhận hiện hữu một tranh chấp chủ quyền tại quần đảo Hoàng Sa. TQ đã dùng vũ lực xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa do Việt Nam Cộng Hòa quản lý từ ngày 17-1-1974.
Theo tinh thần Luật quốc tế về Biển hiện nay, nền tảng của việc phân định biển là sự công bằng. Theo các Công ước về Biển năm 1958, đường ranh giới trên biển là đường trung tuyến phân chia hai bờ của hai quốc gia đối diện. Sau này, các trường hợp do hình thái địa lý bờ biển lồi lõm, việc phân chia theo đường trung tuyến có thể đem lại bất lợi cho một bên. Do vậy qui ước về đường trung tuyến điều chỉnh được nhìn nhận, sao cho việc phân định có được hai vùng biển tương đồng diện tích.
Luật Biển Quốc tế 1982, điều 121, nhìn nhận hiệu lực của một đảo về lãnh hải (12 hải lý), hải phận kinh tế độc quyền (ZEE, 200 hải lý), tương tự như hiệu lực lãnh thổ trên lục địa, ngoại trừ các đảo đá không thể tạo điều kiện cho người sinh sống và không có nền kinh tế tự tại.
Một số các đảo thuộc HS và TS hội đủ kiều kiện « đảo » của Luật Quốc tế về Biển 1982.
Giá trị thật sự của các đảo Hoàng Sa (và Trường Sa) như thế không phải là lãnh thổ, mà là vùng biển kinh tế độc quyền và thềm lục địa (dĩ nhiên bao gồm tài nguyên trong cột nước như tôm cá, hải sản, và các mỏ dầu khí dưới thềm lục địa).
Như thế, tầm quan trọng của việc phân định vùng cửa vịnh Bắc Việt là hàng trăm ngàn cây số vuông biển và thềm lục địa do hiệu lực có thể có của các đảo Hoàng Sa (hàng triệu km² nếu tính hiệu lực cái gọi là quần đảo Trung Sa và đá Hoàng Nham theo yêu sách của Trung Quốc). Vùng thềm lục địa và biển khổng lồ này sẽ phải phân chia như thế nào ?
Gần 15 năm thuơng thuyết chưa thấy nhà nước VN công bố một chi tiết nào về tiến trình đàm phán. Nếu không lầm thì vấn đề « càng để lâu càng khó » (sic !) .
Trên thực tế những năm qua, ngư dân Việt Nam trong vùng biển này thường xuyên bị tàu hải giám TQ đuổi bắt, tịch thu tàu bè, phá hoại dụng cụ hành nghề, bắt đóng tiền phạt… Ngoài ra còn các động thái khẳng định chủ quyền và quyền tài phán của phía TQ, như cho phép khai thác dầu khí, cho thuyền bè ngư dân đánh bắt, cho đấu thầu các lô khai thác dầu khí… tại các vùng biển và thềm lục địa mà phía VN cho là của mình, hay thuộc những vùng tranh chấp.
Phía Trung Quốc đơn phương vạch rõ đâu là giới hạn biển thuộc thẩm quyền của nước mình. Giới hạn này lần hồi hiện rõ nét : đường trung tuyến giữa các đảo Hoàng Sa với bờ biển của Việt Nam.
Điều cần nói thêm, phía Trung Quốc, ngoài chủ trương các đảo Hoàng Sa có đầy đủ hiệu lực « đảo » theo qui định điều 121 của Luật Biển 1982, còn có quan điểm về đường chữ U 9 đoạn. Ở khu vực cửa vịnh Bắc Việt, ranh giới của đường chữ U gần như trùng hợp với đường trung tuyến giữa các đảo Hoàng Sa (tính từ đảo Tri Tôn, đảo ở phía cực tây Hoàng Sa), với bờ biển Việt Nam.
Phía Việt Nam thì không nhất quán về quan điểm chủ quyền lãnh thổ cũng như hiệu lực biển của các vùng lãnh thổ trên biển. Theo thời gian, lập trường của Việt Nam thay đổi theo từng trường hợp.
Về chủ quyền, qua những tài liệu lịch sử và pháp lý của nhà nước tiền nhiệm VN Dân chủ Cộng hòa, nhà nước Việt Nam đã (mặc nhiên) nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa và Trường Sa liên tục trong hai thập niên, từ năm 1958 cho đến năm 1978. Chỉ đến năm 1979, bộ Ngoại giao CHXHCN Việt Nam mới ra tuyên bố gồm 6 điểm nhằm giải thích lại các dữ kiện lịch sử và pháp lý này. Điểm 1 Tuyên bố khẳng định chủ quyền của VN tại Hoàng Sa và Trường Sa. Điểm 2 phủ nhận nội dung Công hàm 1958 theo cách diễn giải của Trung Quốc. Tuyên bố cho rằng Việt Nam chỉ nhìn nhận hiệu lực 12 hải lý lãnh hải chứ không nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa và Trường Sa. Điểm 6 tố cáo TQ « chiếm Hoàng Sa bất hợp pháp bằng quân sự ».
Về hiệu lực các đảo, theo Tuyên bố của Việt Nam trong thập niên 80 thì các đảo của VN có hiệu lực như trên đất liền, kể cả Hoàng Sa và Trường Sa. Tuy nhiên, lập trường này thay đổi, nếu xét đến trường hợp Hiệp ước Phân định Vịnh Bắc Bộ năm 2000, các đảo Bạch Long Vĩ và đảo Cồn Cỏ có hiệu lực không đáng kể.
Việc thay đổi lập trường của Việt Nam, qua việc giảm thiểu tối đa hiệu lực các đảo, có mục đích (mặc định) nhằm hạn chế hiệu lực các đảo Hoàng Sa. Việt Nam thu hẹp hiệu lực các đảo Bạch Long Vĩ và Cồn Cỏ trong vịnh Bắc Việt với hy vọng được Trung Quốc đáp ứng lại, sẽ phân định vùng cửa vịnh Bắc Việt bằng đường trung tuyến ở giữa đảo Hải Nam và bờ biển của Việt Nam. Điều này cũng phù hợp với nội dung công hàm 1958 công nhận lãnh hải 12 hải lý (ở các đảo Hoàng Sa). Lý do là Trung Quốc hiện kiểm soát Hoàng Sa và nước này có đầy đủ chứng cớ chứng minh các đảo này thuộc chủ quyền của họ.
Việc này không dễ dàng được sự đồng thuận của Trung Quốc.
Bởi vì Trung Quốc, một cường quốc đang lên, đang củng cố thế mạnh để mặc cả với Hoa Kỳ để phân chia các vùng ảnh hưởng ở Châu Á cũng như trên thế giới. Trung Quốc không gặp một trở ngại nào đáng kể khi tuyên bố vùng biển tại Hoàng Sa, từ Hoa Kỳ, Nhật, hoặc các nước ASEAN. Một bài nhận định mới đây của học giả Carlyle Thayer cho ta thấy thực tế này. Theo học giả, quyết định ban bố « luật quản lý biển » của Trung Quốc về hải phận tỉnh Hải Nam và các đảo Hoàng Sa là « hợp pháp ».
Tức là, ranh giới trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc tại vùng cửa vịnh Bắc Việt sẽ là đường trung tuyến giữa đảo Tri Tôn (thuộc hoàng Sa) và bờ biển Việt Nam. Điều này nếu xảy ra sẽ khiến cho VN thiệt hại vài trăm ngàn cây số vuông biển và thềm lục địa.
Đã từ rất lâu, hàng chục năm trước, người viết đã thấy việc này và báo động rằng trọng tâm việc phân định hải phận ở biển Đông là chủ quyền các đảo chứ không phải là hiệu lực các đảo.
Đến hôm nay mọi người phải nhìn nhận điều này đúng. Việt Nam không thể yêu cầu Trung Quốc giảm yêu sách về hiệu lực các đảo Hoàng Sa (như VN đã thể hiện tại các đảo Bạch Long Vĩ và cồn Cỏ) vì chính Việt Nam cũng đã từng chủ trương các đảo Hoàng Sa có hiệu lực như vậy. Anh không thể cấm người khác làm cái việc mà anh đang làm. Điều quan trọng khác, yêu sách này không trái với Luật Quốc tế về Biển 1982. Mặt khác, Trung Quốc còn có chủ trương đường chữ U 9 đoạn, là vùng « biển lịch sử ». Ý nghĩa biển lịch sử của Trung Quốc có nhiều người bàn đến. Muốn hóa giải hiệu lực của vùng « biển lịch sử » này, VN không cách nào hữu hiệu bằng việc khẳng định chủ quyền lãnh thổ trên biển. Hiệu lực của các đảo sẽ hóa giải yêu sách của Trung Quốc qua bản đồ chữ U 9 đoạn.
Như thế, chìa khóa để hóa giải mọi yêu sách của Trung Quốc, VN phải khẳng định chủ quyền các đảo thuộc Hoàng Sa và Trường Sa.
Phía Việt Nam tin tưởng vào các học giả của mình, lập luận rằng « người ta không thể cho cái mà người ta không có thẩm quyền » để phủ nhận hiệu lực công hàm 1958 nhìn nhận Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Trung Quốc. Nhiều người cố gắng chứng minh Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Việt Nam Cộng Hòa là hai « quốc gia ». Lại còn lên tiếng yêu cầu nhà nước VN hôm nay cần phải « nhìn nhận » Việt Nam Cộng Hòa « đã từng là một quốc gia ».
Mục đích của các « học giả » này là muốn hóa giải hiệu lực công hàm 1958. Hoàng Sa do quốc gia VNCH quản lý, thì tuyên bố của VNDCCH đâu có ăn nhập gì ?
Nhưng nếu xem VNCH và VNDCCH là hai « quốc gia » thì vấn đề tranh chấp Hoàng Sa xem như khóa sổ. Trên thực tế Trung Quốc chiếm HS từ tay « quốc gia » VNCH. Việc này được sự đồng thuận của quốc gia VNDCCH. Hai « quốc gia » VNCH và VNDCCH là hai « quốc gia » độc lập, có chủ quyền. Trung quốc chiếm Hoàng Sa là chiếm của « quốc gia » Việt Nam Cộng Hòa. « Quốc gia » Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là bên thứ ba, không có quan hệ gì đến « Hoàng Sa ».
Nhưng may mắn là trên thực tế và theo pháp lý, VNDCCH và VNCH là hai vùng lãnh thổ thuộc về một quốc gia duy nhất chứ không phải là hai quốc gia độc lập, có chủ quyền.
Các học giả khác cho rằng nhà nước Cộng hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam thụ đắc danh nghĩa chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa là « kế thừa » Cộng hòa Miền Nam Việt Nam.
Vấn đề là Cộng hòa Miền Nam Việt Nam đã kế thừa Hoàng Sa và Trường Sa bằng thể thức nào ?
Mọi người quên mất một điều quan trọng là Hoàng Sa đã bị Trung Quốc chiếm từ tay VNCH năm 1974. Bỏ qua chuyện kế thừa Trường Sa qua một bên. CHMNVN kế thừa Hoàng Sa từ VNCH bằng cách nào ? Làm sao kế thừa một vật đã không còn nữa ?
Có học giả thì cho rằng tuyên bố của CPCMLT CHMNVN năm 1974 khi TQ xâm lăng Hoàng Sa là đủ lý lẽ để khẳng định chủ quyền của VN tại Hoàng Sa. Nên biết là Tuyên bố này không hề nói đến chủ quyền của VN tại Hoàng Sa mà chỉ nói các tranh chấp lãnh thổ nên giải quyết bằng thương lượng hòa bình.
Một điều cũng rất quan trọng khác, các học giả VN thường quên, là nhà nước CHXHCNVN là nhà nước tiếp nối nhà nước VNDCCH đồng thời kế thừa CPCMLT CHMNVN. Mọi người đã nói (một cách không ổn) rằng VN kế thừa CHMNVN. Nhưng họ lại quên đi CHXHCNVN cũng kế thừa VNDCCH. Một nhà nước không thể cùng lúc kế thừa hai lập trường đối nghịch : Hoàng Sa thuộc Trung quốc (lập trường VNDCCH) và Hoàng Sa thuộc Việt Nam (lập trường VNCH).
Lý lẽ học giả Việt Nam chỉ nhằm che dấu một sự thật về tình trạng pháp lý và lịch sử, hy vọng làm « nhẹ tội » cho lãnh đạo CSVN qua công hàm 1958, hay những động thái nhìn nhận chủ quyền của TQ tại Hoàng Sa và Trường Sa trong quá khứ. Các sản phẩm nghiên cứu của họ phần lớn bóp méo lịch sử, diễn giải sai các dữ kiện pháp lý trong các văn bản quốc tế.
Như thế làm sao thuyết phục ?
Điều đến phải đến, phía Trung Quốc vừa có sức mạnh cứng quân sự, vừa có sức mạnh mềm kinh tế, lại được thế mạnh pháp lý, do đó ngày càng lấn tới.
Tuyên bố của họ về vùng biển Hoàng Sa, theo dư luận quốc tế, là « hợp pháp ».
Hôm nay mọi người đều thấy kế thừa Việt Nam Cộng Hòa là điều cần thiết, mặc dầu chỉ để có danh nghĩa lý thuyết « de jure » chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa. Chỉ có vậy mới có thể cứu vãn hàng trăm ngàn km² biển và thềm lục địa của việt Nam không bị mất cho Trung Quốc.
Sau cuộc chiến Hoàng Sa 40 năm, nhà cầm quyền CSVN mới bắt đầu cho phép một số báo chí tường thuật lại trận chiến giữ nước bi hùng của chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa nhằm chống lại một kẻ thù xâm lăng có lực lượng mạnh hơn nhiều lần là Trung Cộng. Một vài nhân sĩ đáng kính tổ chức các buổi lễ tưởng niệm. Có người hô hào quyên góp để giúp đỡ các quả phụ của các chiến sĩ đã hy sinh. Tất cả các việc làm này đều đáng được trân trọng và hưởng ứng.
Một số người khác « viết thư gởi Liên Hiệp Quốc » mục đích yêu cầu Trung quốc tôn trọng luật pháp quốc tế và chấp nhận đưa tranh chấp Hoàng Sa ra tòa án quốc tế. Tôi cho rằng đây là việc phiêu lưu. Trong tình trạng hiện nay, nếu vấn đề đưa ra tòa án quốc tế, VN không nhiều hy vọng thắng kiện. Mà thua kiện là không chỉ mất Hoàng Sa mà còn mất Trường Sa. Có nghĩa là hiến trọn biển Đông cho Trung Quốc. Điều may là lá thư này không có hy vọng đến LHQ và các định chế trực thuộc vì vấn đề thủ tục.
Tất cả các động thái này nhằm chứng minh việc kế thừa Hoàng Sa.
Đã trễ 40 năm nhưng không là quá trễ.
Cách đây khá lâu, khoảng 10 năm chi đó, người viết có đề nghị một phương pháp khẳng định chủ quyền của VN tại Hoàng Sa và Trường Sa bằng phương pháp kế thừa VNCH thông qua một bộ luật hòa giải quốc gia và dân chủ hóa chế độ.
Trong và ngoài nước, không một ai hưởng ứng.
Bây giờ, nước đến chân, qua các vụ chèn ép của Trung quốc, mọi người thấy đề nghị « kế thừa VNCH » là đúng.
Những nỗ lực vinh danh các chiến sĩ VNCH hy sinh trong trận chiến Hoàng Sa nhằm tạo thế « kế thừa VNCH » đều đáng khen, nhưng chưa đủ. Bởi vì VN hôm nay còn phải đoạn tuyệt với di sản của VNDCCH. Việc này chỉ có thể thực hiện bằng cách thức « hòa giải quốc gia và dân chủ hóa chế độ ».
Từ lâu tôi cũng nói rằng việc tranh đấu khẳng định chủ quyền biển đảo cũng là tranh đấu dân chủ hóa chế độ. Tôi xem rằng những người ý thức được việc cần thiết « kế thừa VNCH » như những kẻ « tri âm ». Thật vui mừng biết bao nhiêu ! Tìm được một người hiểu được mình không dễ.
Hy vọng kỹ niệm 40 năm ngày mất Hoàng Sa mọi người cùng suy nghĩ thêm. Công cuộc giữ nước, giữ vẹn toàn bờ cõi, biển đảo cũng là công cuộc tranh đấu dân chủ hóa chế độ.

Publié par Nhan Tuan Truong
Tôi cũng là một trong những người đấu tranh tiếng nói cho một Việt Nam có sự "Tự do, Dân chủ, đa đảng phái" cho một xã hội công bằng, của mọi sự bình quyền, của công dân được quyền tham gia trên tất cả mọi lãnh vực của Xã hội. Tôi cũng đã sống và trãi qua nhựng thời kỳ đen tối của sự độc tài trị miền Nam. Nhưng những người miền Nam, họ không có chấp nhận cúi đầu của sự độc tài trị; và sẵn sàng bảo vệ lãnh hãi của nước Việt nam không cho giặc Tàu xâm chiếm. Như thế hệ của độc tài trị cờ đỏ ngày nay, không cho người dân trong nước được quyền tiếng nói Tự do, Dân chủ công bằng xã hội chính kiến của mình. Cũng ngay như thế hệ cờ đỏ nước ngoài dám đi biểu tình chống giặc Tàu xâm chiếm biển đảo. Nhưng không dám biểu tình tiếng nói của mình ngay trước cổng tòa Đại sứ hay Lãnh sự quán VN tại nước ngoài. Vì sự độc tài trị của cờ đỏ mà chúng ta mất tất cả biển đảo, đất liền biên giới. Cũng như sự phá hoại tàn phá môi trường sinh sống của đất nước do giặc cờ đỏ rước vào.
KN

"Càng im lặng
Càng nghe rỏ"
Tiếng gió gọi...
Tiếng lá reo...
Tiếng nước chảy...
Trong huyết quản...
Tiếng nước ta...
Chung giòng máu...
Con nước Việt...
Đòi tự chủ...
Thoát độc tài...
Bán dân tộc...
Cho Bắc phương...
Mang bành trướng...
Xuống Việt Nam


KN

Đảng là ai





"Sự ích kỷ "ganh tị" là một thói quen, thay vì chỉ cho mình có hạnh phúc mà hãy san sẽ cho những người khác đều được như mình."

- Giống như đảng cộng sản Việt Nam, thay vì cho người dân được quyền tự do chọn lựa cho mình có cuộc sống hạnh phúc. Nhưng họ đã vì ganh tị mà họ đã độc chiếm cưởng đoạt hết tất cả những sự tự do dân chủ của người dân

- Als kommunistische Vietnam, anstatt den Menschen das Recht, frei zu wählen ihre eigenen glückliches Leben. Aber sie so egoistisch, dass sie monopolisiert hatte erpressen alle demokratischen Freiheiten des Volkes

Bild könnte enthalten: Himmel und Baum
Đảng là ai
Nhà nước là ai
Sao cứ ghép nhân dân
Vào danh từ nhà nước
Để độc quyền độc trị
Hút hết máu nhân dân
Bằng độc tài đảng trị

Bán luôn cả giang sơn
KN


Freitag, 18. Januar 2019



Khó và dễ hai con đường...đó là sự can đảm cho một con đường tự do, dân chủ của hạnh phúc
Khó là chúng ta quên đi sự hào nhoáng dối trá của quá khứ...
Dễ là chúng ta nên quên đi tất cả để xây dựng lại...
Khó là chúng ta không dám mở miệng nói sự bất công trong xã hội...
Dễ là chúng ta lấy sự can đảm của chính mình để đòi quyền lợi...
Khó là chính chúng ta có một nỗi sợ vô hình trong tâm níu kéo...
Dễ là chúng ta chấp nhận buông đi tất cả thì cuộc sống sẽ được tốt đẹp bình yên...
Khó là chúng ta có dám chấp nhận buông đi tất cả...
Dễ là khi chúng ta có chữ Tâm trong người...
Giữa dễ và khó có hai con đường cho chúng ta quyết định...
Khó là con đường của sự sợ hãi trong bóng đêm quyền lực đe dọa đàn áp...
Dễ là con đường của sự thật đầy ánh sáng của sự tự do ngôn luận....
KN
"Can đảm có nghĩa là không có sự sợ hãi.
Can đảm là sự quyết định, để giãi quyết những vấn đề quan trọng của con người trong xã hội hơn là sự sợ hãi."
-Sợ hãi là bóng dêm của quyền lực, và sợ hãi là chúng ta không dám mở miệng nói tiếng nói lẻ phải của mình.
Angst ist das Dunkel der Macht, und Angst; dass wir es nicht wagen, um unsere individuellen Stimme sprechen.

Bild könnte enthalten: Vogel und Text

Nhại lài bài thơ chúc Tết 1968 "giết người" của ông Hồ...
Xuân này hơn hẳn mấy Xuân qua
Máu chảy chan hòa khắp mọi nhà
Toàn dân thi đua đánh giặc Mỹ
Nam Bắc một nhà rước Trung Hoa
KN

Xuân này khác hẳn xuân qua
Năm con lợn béo vinh gia phò Tàu
Tập đoàn kinh tế quốc doanh
Đảng ta rước giặc Trung Hoa vào nhà
Xây dựng cơ sở hạ tầng 
Hoa vi "Huawei" mạng lưới an ninh bịt mồm
Năm G phủ sóng Việt Nam
Tài liệu đánh cắp thông tin người dùng
Đảng ta ngăn cấm con người
Thực thi nghị quyết bằng luật an ninh
Còn đâu tiếng nói làm người
Tự do dân chủ là quyền công dân
B phone sản phẩm Việt Nam
Sân sau chính thức là hàng Trung Hoa
Bao che nội gián nước mình
Lấy tiền tham nhũng Hoàng- Trường biển đông
Chủ trương chính sách đảng ta
Thượng tàng cơ sở là luật đặc khu
Đảng ta hai mặt một lòng
Lòng lợn bán nước làm giàu bản thân

KN

Dienstag, 15. Januar 2019

Nhớ mãi tên người...


Chiến tranh nhân dân mà các chế độ độc tài nào cũng sợ hãi. Đó là chiến tranh tư tưởng càng ngày càng khôn lớn của người dân mà chế độ độc tài cố tình bưng bít bấy lâu nay. Mà hiện nay chế độ độc tài gọi là "Diễn tiến hòa bình" hay "Tự chuyển hóa" mà đảng CS độc tài ta đang lo sợ.
CHIẾN TRANH NHÂN DÂN
Tôi mới nghiệm ra được một điều thú vị, rằng cả hai Đảng Cộng sản TQ và VN đã và đang chơi trò ú tim “Chiến Tranh Nhân Dân” với toàn thể dân tộc hai nước. Họ đã sử dụng cả một guồng máy tuyên truyền khổng lồ cộng với một hệ thống công an chìm nổi để kiểm soát tư tưởng người dân và đưa dân chúng hai nước vào con đường ngu tối từ hơn nửa thế kỷ nay. Do đó trước trào lưu tiến hoá của nhân loại bên ngoài, nhất là từ khi có mạng lưới Internet phổ biến tràn lan khắp thế giới thì hai Đảng CS đó hết sức lo ngại. Họ sợ một khi toàn dân hiểu được mánh khoé họ đã dùng để bóc lột sức lao động toàn dân trong nửa thế kỷ nay thì con đuờng cùng của họ sắp kề cận. Khối Liên Xô sụp đổ hồi cuối thập niên 80 là dấu hiệu báo trước rõ ràng.
Vì đứng trước nguy cơ tan rã đó, mà hai Đảng CS phải chung lưng đấu cật tìm cách chống đỡ… chống đỡ cái gì? Chống đỡ sức mạnh của Sự Thật, của trào lưu tiến hoá dân chủ toàn cầu. Họ hè nhau gọi nôm na đó là “Diễn Tiến Hoà Bình”. Họ sợ Hoà Bình, vì lẽ họ rất muốn khơi động chiến tranh để kích động hơn một tỷ con người vào một cuộc chiến tranh tâm lý để họ có cớ mà tiếp tục cai trị (bằng ngu dân và mỵ dân). Đó là lý do tại sao Bắc Triều Tiên cứ nhảy nhổm lên đòi chơi trò bắn súng, thả bom với anh Nam Hàn, sau vụ chìm tàu. Hoa Kỳ cũng không dại gì mà bị mắc mưu. Thế giới ngày nay ở thời đại A Còng (@) Internet không dễ gì bị trúng kế.
Thế thì chúng ta cứ yên tâm bình thản mà “Diễn Tiến Hoà Bình” trong lý luận vững chắc, trong nhận thức khoa học, dân chủ và tự do. Kẻ nóng vội giờ này chính là hai Đảng CS TQ và VN, đó là lý do tại sao các ông lớn VN cứ nằng nặc đòi đi xe lửa cao tốc từ Bắc chí Nam càng sớm càng tốt. Còn ông TQ thì đang vò đầu bứt trán với cái công trình vĩ đại “Đập thuỷ điện Tam Hiệp”, ông chưa dám cắt băng khánh thành vì lo sợ phập phồng với phản ứng của một tỷ rưỡi dân TQ.
Lê Quốc Trinh
Bildergebnis für hồ chí minh hồ quang

https://www.google.com/search?q=h%E1%BB%93+ch%C3%AD+minh+h%E1%BB%93+quang&tbm=isch&tbs=simg:CAQSlwEJavwNBiKxil0aiwELEKjU2AQaBAgUCAMMCxCwjKcIGmIKYAgDEijGFccV7Qr0BIIPxRXCFfUEvBW6FZwu_1jehLoM4yiugLvUt2CyGOKMuGjAA_1_1wTskADmYWqYQjUzuOcKI7sM9syhx-r13nRcStPCArC8NojWfOXfAr0FLcy70AgBAwLEI6u_1ggaCgoICAESBPgR_1m8M,isz:m&sa=X&ved=0ahUKEwidxKSOjvDfAhVPDewKHRTyDnIQ2A4IKygC&biw=1280&bih=610#imgrc=2mUBtqt8w7qyFM:

Việt Nam từng khoe đánh thắng 3 đế Quốc sừng sỏ, khoe ta đây là giõi nhất.
Nhưng đối với mình chẳng giõi gì, ngoài người Việt giết người Việt là giõi nhất, và ngu xuẫn nhất Thế giới của triều đại cộng sản độc tài chủ nghĩa.

Nhớ mãi tên người...

Hoàng- Trường biển đảo nhờ ơn bác
Công hàm năm tám "58" nhớ ơn người
Chủ quyền biển đảo ta dâng tặng
Độc lập tự chủ cho nước Trung...
Con cháu hậu Thanh chính là người
Rước loài vô sản vào nước Nam
Cướp đất hành dân mang chủ nghĩa
Đốt dãy Trường Sơn diệt nước Việt
Thống nhật giang sơn nhà nước Trung...
Chủ nghĩa diệt vong hóa thiên đường
Ngàn năm nô lệ nhờ ơn bác
Việt Nam tăm tối mãi ngàn đời


KN

Sonntag, 13. Januar 2019

Vì sao Đảng Cộng sản Trung Quốc trị được Đảng Cộng sản Việt Nam?


Bài toán mà đảng cộng sản Trung Quốc, để lại một bài học 1979 và 1988 bằng vũ lực cho đảng cộng sản Việt Nam chiếm thêm đất biên giới và Gạc Ma "Trường sa". Bây giờ được thay thế bằng quyền lực mềm = Kinh tế trị của Trung Quốc, để bảo vệ cho sự chính danh gian dối của đảng cộng sản Việt Nam sống còn, để dâng những phần đất còn lại cho Trung Quốc. "Luật an ninh mạng" đã thành hình qua sự việc công ty Viễn thông Hà Nội mời Huawei qua xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng để cho cơ sở thượng tầng là "Luật đặc khu" sẽ thành hình khắp 3 miền đất nước Việt Nam, bằng hình thức xâm lăng kiểu mới mà nhà nước độc tài cộng sản Việt Nam hèn hạ, chấp nhận để giữ ngôi vị độc đảng quyền cai trị đàn áp công dân Việt Nam.


Đúng không?
Việt- Trung chung đất chung nhà
Xóa nòi giống Việt là người đảng ta
Anh em chung giống chung nòi
Xua quân cưỡng chiếm đất người dân Nam...
Mối tình đồng chí anh em
Bạn vàng bốn tốt chung tay nghĩa tình
Tập đoàn kinh tế quốc doanh
Đặc khu kinh tế ba miền nước Nam
Dân Nam lên tiếng can ngăn
Đảng ta ra luật an ninh bịt mồm
Dùi cui đàn áp dân Nam
Tù đày giam gìũ bắt người cho Trung...
Bao giờ gió nổi xông pha
Mừng xuân kỷ hợi tiếng người Việt nam
Không còn sợ hãi trong lòng
Phá tan ngục tối trên toàn nước Nam
KN

Nếu Đảng Cộng sản Việt Nam chuyên nói ngược, nói một đằng làm một nẻo thì Đảng Cộng sản Trung Quốc còn hơn thế nữa. Hãy xem cái cách Đảng Cộng sản Trung Quốc một mặt cứ đem chiêu bài 16 chữ vàng trong mối quan hệ giữa hai nước ra để làm yên lòng những nhà cầm quyền Việt Nam nhưng mặt khác vẫn để yên cho báo chí thóa mạ Việt Nam, cho tàu bè ngang nhiên bắt bớ ngư dân Việt Nam… thì đủ hiểu. Nếu Đảng Cộng sản Việt Nam không biết ngán sợ dư luận thế giới trong hàng loạt hành vi bắt bớ, giam cầm những người bất đồng chính kiến, thẳng tay đàn áp tôn giáo, ngang nhiên tuyên bố chính công an và chính quyền là thủ phạm tấn công và đánh sập hàng loạt các trang báo mạng độc lập và trang blog cá nhân có những quan điểm trái chiều với nhà nước v.v…
Trong nhiều năm dài, Đảng Cộng sản Việt Nam với các thế hệ lãnh đạo liên tiếp chỉ là những kẻ tham lam, bạc nhược, quan trí thấp, tầm nhìn ngắn, lại thêm nỗi lo sợ phải bảo vệ thể chế chính trị này bằng mọi giá, đã thua trắng tay các thế hệ lãnh đạo Trung Quốc vốn thâm sâu, trăm mưu ngàn kế, lại không che giấu một tham vọng bành trướng đã ăn sâu vào máu từ bao đời nay. Đảng Cộng sản Trung Quốc thừa hiểu nỗi sợ lớn nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam là phải giữ vững chế độ cho dù có phải chịu lệ thuộc vào ngoại bang (ở đây là Trung Quốc), có phải mất đất mất biển; họ cũng biết rât rõ điểm yếu của Đảng Cộng sản Việt Nam nằm ở đâu và họ triệt để khai thác những điểm này. Chẳng hạn như Đảng Cộng sản Việt Nam rất sợ mất tính chính danh trước nhân dân nếu để cho nhân dân thấy giới lãnh đạo Đảng chỉ là bọn bán nước, nhu nhược, thì Đảng Cộng sản Trung Quốc cứ ngang nhiên và thường xuyên cho tàu vào ra vùng biển thuộc lãnh hải của Việt Nam, bắt bớ đánh đập đòi tiền chuộc các ngư dân Việt Nam… buộc nhà cầm quyền Việt Nam hiện nguyên hình là những kẻ hèn với giặc ác với dân trong mắt người dân Việt Nam; hoặc nếu Đảng Cộng sản Việt Nam rất sợ những bí mật về ông Hồ bị phơi bày ra thì đó cũng là một trong những con bài để Đảng Cộng sản Trung Quốc gây áp lực khi cần v.v… Nói tóm lại, chơi kiểu gì, chơi đường nào thì Đảng Cộng sản Việt Nam cũng dưới cơ Đảng Cộng sản Trung Quốc mà thôi. Hay nói cách khác, chỉ có Đảng Cộng sản Trung Quốc là trị được Đảng Cộng sản Việt Nam vì tất cả những lý do trên. Điều đó lý giải vì sao trước nhà cầm quyền Trung Quốc, nhà cầm quyền Việt Nam trở nên bạc nhược, hèn hạ đến vậy.
Song Chi – Vì sao Đảng Cộng sản Trung Quốc trị được Đảng Cộng sản Việt Nam?
Có rất nhiều bài báo, cuốn sách phân tích, nghiên cứu về việc tại sao Đảng Cộng sản Việt Nam đã chiến thắng trong cuộc chiến tranh với Mỹ và với phe Việt Nam Cộng hoà. Ở đây tôi chỉ xin nói lại vài điểm trong quan điểm của mình. Tôi cho rằng, trong cuộc chiến với Mỹ trước kia, Đảng Cộng sản Việt Nam có rất nhiều lợi thế và họ đã biết tận dụng tối đa những lợi thế này. Một, đó là họ đã khai thác được lòng yêu nước, tinh thần chống ngoại xâm mạnh mẽ của người dân Việt Nam dưới chiêu bài “chống Mỹ cứu nước” để tiến hành một cuộc chiến tranh thực tế là vì quyền lợi của Đảng Cộng sản Việt Nam và của phe xã hội chủ nghĩa mà đứng đầu là Liên Xô lúc bấy giờ; hai, họ đã nhận được sự hỗ trợ về nhiều mặt từ lương thực, cố vấn quân sự cho đến vũ khí các loại, chẳng hề thua kém gì sự viện trợ của Mỹ dành cho Nam Việt Nam, thậm chí trong giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến khi miền Nam bị cắt giảm viện trợ rồi cúp hẳn thì viện trợ của phe xã hội chủ nghĩa dành cho miền Bắc vẫn hết sức hùng hậu; thứ ba, họ rất biết cách tuyên truyền, định hướng dư luận với nhân dân miền Bắc và với quốc tế, tranh thủ sự ủng hộ của các phong trào phản chiến, phong trào xã hội có tính chất khuynh tả ở các nước phương Tây lúc bấy giờ, thêm một cái may cho họ là báo chí phương Tây, nhất là báo chí của chính nước Mỹ, với cách đưa tin, bài nhấn mạnh về sự kéo dài của cuộc chiến, những tổn thất về tiền bạc và nhất là sinh mạng của người Mỹ, chỉ trích sự sa lầy của chính phủ Mỹ tại Việt Nam v.v… đã góp phần làm cho phong trào phản chiến tại Mỹ dâng cao cộng với dư luận quốc tế dẫn đên việc Mỹ quyết định rút khỏi Việt Nam. Và còn rất nhiều nguyên nhân khác nữa.
Nhưng đến bây giờ nếu xảy ra cuộc chiến với Trung Quốc, Đảng và Nhà nước Việt Nam hoàn toàn không còn có những lợi thế đó nữa. Người dân Việt Nam muôn đời vẫn là một dân tộc rất có tinh thần yêu nước, nhưng liệu bây giờ Đảng Cộng sản Việt Nam có còn nhận được sự ủng hộ 100% của nhân dân nữa không? Những người đảng viên từ trên xuống dưới, đặc biệt là các cấp lãnh đạo, không còn là những người vô sản như ngày xưa mà trái lại, bây giờ họ có quá nhiều tài sản, quá nhiều thứ để mất nên tinh thần chiến đấu chắc chắn cũng không thể bằng như ngày xưa. Nếu xảy ra chiến tranh bây giờ, Đảng và Nhà nước Việt Nam cũng không còn ai là đồng minh như đã từng có Liên Xô, Trung Quốc trước kia… Về mặt tuyên truyền, hướng dẫn dư luận, với nhân dân trong nước, Đảng Cộng sản Việt Nam không còn muốn nói gì thì dân cũng tin và nghe theo, còn trên quốc tế thì cả thế giới đều hiểu rõ chủ nghĩa cộng sản và thực chất cuộc sống của người dân trong những quốc gia do đảng cộng sản lãnh đạo là như thế nào, ngay cả người Nga bây giờ còn phải lên án chế độ cộng sản; nên nếu hai nước “anh em, đồng chí” cùng do hai đảng cộng sản lãnh đạo này có đánh nhau thì thế giới cũng phản đối lấy lệ chứ chẳng ai nhiệt tình can thiệp, tình hình như vậy đã từng xảy ra khi Trung Quốc đánh Việt Nam vào những năm 1979, 1988. Chưa kể nước nào cũng phải nghĩ đến những quyền lợi của đất nước họ, nhân dân họ là trên hết, tại sao họ phải vì Việt Nam – một quốc gia chẳng phải là đồng minh của họ – để đối đầu với Trung Quốc, ảnh hưởng tới bao nhiêu mối lợi về thương mại, kinh tế…?
Trước đây, trong cuộc chiến tranh với một nước dân chủ mà chính phủ rất sợ phản ứng của người dân như nước Mỹ, Đảng Cộng sản Việt Nam tha hồ tận dụng điểm này để tuyên truyền xách động dư luận quốc tế và tạo sức ép về mặt dư luận với nhân dân Mỹ để đến lượt họ, gây sức ép lại với chính phủ Mỹ về cuộc chiến tranh hao người tốn của này. Nhưng với nhà cầm quyền Trung Quốc thì nhà cầm quyền Việt Nam thua vì Đảng Cộng sản Trung Quốc – cũng giống như Đảng Cộng sản Việt Nam, thậm chí còn hơn hẳn một bậc, chẳng hề coi nhân dân họ ra ký lô gì. Còn về việc nướng quân trong chiến tranh thì Trung Quốc sẵn sàng chẳng ngán gì ai. Trong bài viết “Hiểm họa diệt chủng”, tác giả Nguyễn Sơn có nhận xét về việc nếu xảy ra chiến tranh giữa Mỹ và Trung Quốc như sau:
“So sánh về tư tưởng chiến lược quân sự tương lai. Chi Hoatian nhận xét “lý do mà nước Mỹ còn tồn tại vì chưa bao giờ có chiến tranh xảy ra ngay tại trên đất nước của họ. Nếu tình huống chiến tranh xảy ra hôm nay, tôi có thể tiên đoán là khi địch quân đã tràn vô tới thủ phủ Hoa Thịnh Đốn rồi thì Quốc hội Mỹ vẫn còn bận họp để tranh cãi có nên cho phép Tổng thống của họ tuyên chiến hay không? Đó là sự khác biệt giữa Mỹ và Trung Quốc. Chúng ta không phí thời giờ cho những bàn cãi vô bổ này. Đồng chí Đặng Tiểu Bình đã từng dạy “Cái cốt lõi của vấn đề nằm ở sự nhạy bén của Đảng. Một khi Đảng đã quyết định, thì lập tức mệnh lệnh được thi hành, không mất thời giờ vô bổ như các quốc gia tư bản”.
Và:
“Não trạng Trung Quốc từ sau trận chiến biên giới Việt-Trung cũng không thay đổi. Họ sẵn sàng thí mạng dân Trung Quốc nếu phải xảy ra cuộc đối đầu chiến tranh nguyên tử cũng như không ngần ngại sử dụng vũ khí hủy diệt nhân loại để chiến thắng nếu cần. Nếu thế chiến thứ hai hơn 57 triệu người đã bị chết, thì thế chiến thứ ba sẽ khủng khiếp hơn. Đối với lãnh đạo Trung Quốc mạng người chỉ là rơm rạ. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Trung Quốc tuyên bố câu nói lịch sử “nếu phải hy sinh một nửa
dân Trung Quốc, tức là hơn nửa tỷ dân chết đi để giữ cho đảng CSTrung Quốc được tồn tại thì họ vẫn làm”. Vì nếu bị mất Đảng, tức là mất đầu tàu, mất lãnh đạo, mất phương hướng thì Trung Quốc coi như sụp đổ.”
Chưa kể, tất cả những trò ma mãnh, thủ đoạn nào mà Đảng Cộng sản Việt Nam có thể sử dụng với đối phương thì Đảng Cộng sản Trung Quốc còn là thầy của họ trong những trò này nữa. Cả hai quốc gia này đều nắm trong tay toàn bộ ngành báo chí truyền thông trong nước, tha hồ chỉ đạo cho báo chí nói gì thì nói, muốn đổi trắng thay đen, sửa đổi lịch sử, muốn tuyên truyền chính nghĩa về phía mình, bôi nhọ kẻ thù, kích động lòng căm thù của nhân dân, định hướng dư luận trong nước… tha hồ. Tuy nhiên, cho đến nay, mới thấy báo chí truyền thông Trung Quốc mạnh miệng trong lĩnh vực này, hết thẳng tay chửi Việt Nam là “lòng lang dạ sói”, “tiểu nhân bỉ ổi không biết xấu hổ”, rằng nếu “cuộc chiến tranh Trung-Việt năm 79 vẫn chưa đủ dạy cho Việt Nam một bài học tơi bời thì trong bài học lần này, chúng ta cần làm triệt để, để Việt Nam có được bài học nhớ đời và cũng là vì lợi ích lâu dài của Trung Quốc” hoặc “phải giết bọn giặc Việt Nam để làm vật tế cờ trong trận chiến thu hồi Nam Sa” và những kiểu hù dọa, lăng mạ, bôi nhọ, vu cáo khác nhau trong rất nhiều bài báo đăng trên một số trang báo mạng chính thức của Trung Quốc, đã được dịch và đăng lại trên trang Bauxite Vietnam gần đây. Trong khi đó thì báo chí Việt Nam suốt một thời gian dài không được phép nói bất cứ điều gì bất lợi cho “mối quan hệ hữu hảo” giữa hai nước, mãi đến gần đây mới thấy đưa tin ngư dân Việt Nam bị tàu Trung Quốc bắt giữ, cướp tài sản, đòi tiền chuộc… chẳng hạn.
Nếu Đảng Cộng sản Việt Nam chuyên nói ngược, nói một đằng làm một nẻo thì Đảng Cộng sản Trung Quốc còn hơn thế nữa. Hãy xem cái cách Đảng Cộng sản Trung Quốc một mặt cứ đem chiêu bài 16 chữ vàng trong mối quan hệ giữa hai nước ra để làm yên lòng những nhà cầm quyền Việt Nam nhưng mặt khác vẫn để yên cho báo chí thóa mạ Việt Nam, cho tàu bè ngang nhiên bắt bớ ngư dân Việt Nam… thì đủ hiểu. Nếu Đảng Cộng sản Việt Nam không biết ngán sợ dư luận thế giới trong hàng loạt hành vi bắt bớ, giam cầm những người bất đồng chính kiến, thẳng tay đàn áp tôn giáo, ngang nhiên tuyên bố chính công an và chính quyền là thủ phạm tấn công và đánh sập hàng loạt các trang báo mạng độc lập và trang blog cá nhân có những quan điểm trái chiều với nhà nước v.v… thì Đảng Cộng sản Trung Quốc, với thế mạnh của một cường quốc kinh tế đứng hàng thứ hai trên thế giới hiện nay và là chủ nợ của nhiều nước kể cả Mỹ, càng không coi dư luận thế giới ra cái gì. Nói như thế để nếu có một cuộc chiến tranh xảy ra giữa Việt Nam và Trung Quốc, có điều gì mà Trung Quốc không dám làm rồi sau đó phủi tay, tìm cách nói ngược lại trước dư luận thế giới? Ở Trung Quốc cũng như ở Việt Nam, làm gì có báo chí độc lập để lên án chính phủ sa lầy trong một cuộc chiến vô nghĩa, buộc chính phủ phải rút lui như ở Mỹ? Còn người dân Trung Quốc thì đã được báo chí chuẩn bị tinh thần, định hướng dư luận trong suốt một thời gian dài để phần lớn họ sẽ tin rằng “đánh cho bọn Việt Nam xấu xa một trận” là đúng.
Tuy nhiên, thiết nghĩ, trong thời đại này, việc một nước nào đó sử dụng con đường quân sự, con đường chiến tranh để đánh chiếm một nước khác cũng là kế hạ sách. Thay vào đó, Đảng Cộng sản Trung Quốc có hàng ngàn cách khác để vẫn nắm được Đảng Cộng sản Việt Nam trong tay, qua đó khai thác tối đa những gì có thể khai thác được từ mảnh đất hình chữ S này. Đó là việc sử dụng sức mạnh mềm – ở đây là vừa dùng tiền để mua chuộc các cấp lãnh đạo tham nhũng có hạng của Việt Nam, vừa sử dụng mối quan hệ “láng giềng hữu hảo”, “anh em đồng chí” như một lá bùa dán lên miệng để làm yên lòng giới lãnh đạo Việt Nam; lũng đoạn chính trị, lũng đoạn kinh tế, làm cho kinh tế Việt Nam ngày càng phải lệ thuộc vào Trung Quốc, mặt khác, chiếm đoạt dần dần lãnh thổ lãnh hải của Việt Nam mà không tốn một viên đạn. Dù là một nước lớn nhưng trong cách hành xử từ trước đến nay với các nước láng giềng nhỏ yếu hơn trong đó có Việt Nam, Trung Quốc chưa bao giờ tỏ ra là một nước đàn anh chính nhân quân tử, sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn để lừa các nhà cầm quyền Việt Nam vào tròng, giành lấy từng kilomet đất, biển; trong làm ăn kinh tế thì chỉ toàn tính lợi cho nước mình còn sự mất mát, thiệt hại lâu dài thì nước khác phải gánh chịu. Điều này cũng đang diễn ra trong mối quan hệ của Trung Quốc với một số quốc gia khác, nhất là ở Châu Phi.
Trong nhiều năm dài, Đảng Cộng sản Việt Nam với các thế hệ lãnh đạo liên tiếp chỉ là những kẻ tham lam, bạc nhược, quan trí thấp, tầm nhìn ngắn, lại thêm nỗi lo sợ phải bảo vệ thể chế chính trị này bằng mọi giá, đã thua trắng tay các thế hệ lãnh đạo Trung Quốc vốn thâm sâu, trăm mưu ngàn kế, lại không che giấu một tham vọng bành trướng đã ăn sâu vào máu từ bao đời nay. Đảng Cộng sản Trung Quốc thừa hiểu nỗi sợ lớn nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam là phải giữ vững chế độ cho dù có phải chịu lệ thuộc vào ngoại bang (ở đây là Trung Quốc), có phải mất đất mất biển; họ cũng biết rât rõ điểm yếu của Đảng Cộng sản Việt Nam nằm ở đâu và họ triệt để khai thác những điểm này. Chẳng hạn như Đảng Cộng sản Việt Nam rất sợ mất tính chính danh trước nhân dân nếu để cho nhân dân thấy giới lãnh đạo Đảng chỉ là bọn bán nước, nhu nhược, thì Đảng Cộng sản Trung Quốc cứ ngang nhiên và thường xuyên cho tàu vào ra vùng biển thuộc lãnh hải của Việt Nam, bắt bớ đánh đập đòi tiền chuộc các ngư dân Việt Nam… buộc nhà cầm quyền Việt Nam hiện nguyên hình là những kẻ hèn với giặc ác với dân trong mắt người dân Việt Nam; hoặc nếu Đảng Cộng sản Việt Nam rất sợ những bí mật về ông Hồ bị phơi bày ra thì đó cũng là một trong những con bài để Đảng Cộng sản Trung Quốc gây áp lực khi cần v.v… Nói tóm lại, chơi kiểu gì, chơi đường nào thì Đảng Cộng sản Việt Nam cũng dưới cơ Đảng Cộng sản Trung Quốc mà thôi. Hay nói cách khác, chỉ có Đảng Cộng sản Trung Quốc là trị được Đảng Cộng sản Việt Nam vì tất cả những lý do trên. Điều đó lý giải vì sao trước nhà cầm quyền Trung Quốc, nhà cầm quyền Việt Nam trở nên bạc nhược, hèn hạ đến vậy.
Đảng Cộng sản Việt Nam vì những quyền lợi của họ mà phải hèn nhát chịu cho Đảng Cộng sản Trung Quốc ép mọi bề, nhưng còn nhân dân Việt Nam – một dân tộc đã từng có một lịch sử lâu dài vượt qua mọi âm mưu thôn tính, mọi cuộc chiến tranh tàn khốc, mọi sự nghiệt ngã của số phận để tồn tại, lẽ nào ngày hôm nay chúng ta lại chịu để cho lịch sử 1000 năm lệ thuộc phương Bắc sẽ lặp lại nhưng tinh vi hơn, tàn nhẫn hơn? Lẽ nào nhân dân Việt Nam lại cứ cam chịu để cho Đảng Cộng sản Việt Nam và một nhóm những kẻ nắm quyền lãnh đạo cao nhất được phép thay mặt nhân dân dâng đất, dâng biển, bán rẻ tài nguyên, biến mảnh đất này thành nguồn lợi khai thác đồng thời là bãi rác thả của đủ thứ độc hại từ sản phẩm kém chất lượng cho tới bùn đỏ bauxite… của nước khác? Đất nước này không phải chỉ của Đảng Cộng sản và của một nhóm người để họ có quyền muốn làm gì thì làm. Bao nhiêu quốc gia đã chọn được một con đường đúng để đi, kể cả những quốc gia từng một thời sai lầm như Liên Xô cũ và các nước Đông Âu nay cũng đã vượt qua được quá khứ, sao nhân dân ta phải cam chịu đi con đường sai thành ra lẻ loi không bè bạn không đồng minh, một mình đối mặt với hiểm họa từ phương Bắc?
Song Chi

Samstag, 12. Januar 2019

Đây là một phần mà các Quốc gia tự do, dân chủ, đa nguyên đảng phái đã thực hiện điều thứ 2 này.
"- Thứ hai, Đức Phật khuyến khích tinh thần hợp tác xã hội và sự tham gia tích cực vào xã hội. Tinh thần này được tích cực đẩy mạnh trong tiến trình chính trị của xã hội tiên tiến."
Chúng ta thử nhìn lại đệ 2 Thế chiến. Giữa độc tài trị và tự do, dân chủ. Nước Đức, nước Nhật và Ý Đại Lợi bại trận mang chủ nghĩa hận thù gây chiến tranh. Trong khi đó bên thắng trận các Quốc gia tự do, dân chủ đã không trả thù họ mà còn giúp đở họ xây dựng lại một nền kinh tế hùng mạnh ngày nay. Trong khi đó Đông Âu bị kẻ chiến thắng là Nga Sô độc tài cộng sản, trả thù và bắt các nước Đông Âu phải đi theo chủ nghĩa độc tài toàn trị cộng sản, thì có khác gì chủ nghĩa Phát xít trước khi gây ra chiến tranh hay không.? Cũng như công dân Đông Đức củ 1953, công dân Hung Gia Lợi 1956 và công dân Tiệp Khắc 1968 đòi quyền làm người tự do, dân chủ đã bị nhà nước độc tài xứ họ đàn áp và nhờ sự tiếp viện của quân đội Nga trấn đóng đàn áp công dân Quốc gia của họ để đè bẹp cái quyền được làm người tự do... Độc tài trị là tàn ác giết ngay công dân nước mình.
"Kẻ chiến thắng gieo hận thù, kẻ chiến bại sống đời lầm than. Ai là kẻ từ bỏ cả thắng lẫn bại, kẻ đó hạnh phúc và an lạc"
Khi chế độ độc tài toàn trị chỉ chuyên bóc lột sức lao động công dân và thông tin thì bịt mắt bịt miệng công dân. Bằng những lời tuyên truyền giả dối, lường gạt công dân. Để rồi đến ngày TBT Gorbi của Nga kêu gọi giãi tỏa chế độ độc tài cộng sản. Công dân Đông Âu đã xuống đường đòi quyền làm người chân chính của sự tự do, dân chủ, đa nguyên thật sự. Chính quyền độc tài đã đàn áp dã man những người xuống đường ngày này qua ngày khác. Nhưng cuối cùng chính quyền độc tài cộng sản phải bất lực, khi quân đội và công an là con em của công dân họ cảm thấy đây là sự bất công của sự độc tài trị công sản. Họ đã quay lại với công dân để cứu đất nước trước sự thật của sự đàn áp dã man do đảng cộng sản sai khiến họ đánh đập con em công dân của họ. Đông Âu thành công thoát chủ nghĩa độc tài cộng sản trị lệ thuộc Nga Sô. Còn Việt Nam chỉ lấy bên chiến thắng trả thủ bên chiến bại để chấp nhận mất biển đảo, đất đai của tổ tiên mình để lệ thuộc độc tài cộng sản Trung Hoa.Vì quyền lực của sự tham vọng độc quyền lảnh đạo. Buồn cho những người công dân nước mình đa số không có sự nhận thức và cũng buồn khi có những vị tu sĩ bán rẻ lương tâm mình để phục vụ cho chế độ độc quyền đàn áp con em của công dân mình. Buồn cho một đất nước Phật giáo lại không đi đúng đường lối của Đức Phật rao giãng cách đây hơn 2500 năm.
"Nếu có sự trị vì sai quấy, họ sẽ kêu ca khi bị thiệt hại bởi sự bất lực của người cầm quyền do chính sách hình phạt, thuế má, bất công hay những áp bức kể cả sự tham nhũng dưới bất cứ hình thức nào, và người dân sẽ chống lại nhà cầm quyền bằng cách này hay cách khác."
Trong khi Thế giới tự do dân chủ, đa nguyên trị họ phục vụ làm lợi cho đất nước và công dân như lời Đức Phật rao giãng.
"Ngài phụ trách các công việc lợi ích công cộng, như thiết lập các bệnh viện cho người và vật, cung cấp thuốc men, trồng cây cối trên các đường lộ và rừng, đào giếng, xây cất các trạm tiếp tế nước và các nhà tạm trú. Ngài triệt để cấm ác độc với thú vật."
Điều thứ tư: Phải biết rỏ ràng luật lệ để thi hành là: Luật pháp là cho mọi người được quyền Tự do trong ngôn luận, để chống tham nhũng và tệ nạn bất công của xã hội, môi trường, mất đất đai, biển đảo v.v... Đó là quyền Dân chủ của công dân có quyền kiễm soát Chính quyền về vấn đề tham nhũng, hối lộ v.v... Đó là quyền xây dựng một chính trị đa nguyên, bình đẳng, cho tất cả mọi Tôn giáo cũng như công dân; được quyền thành lập một xã hội đa đảng phái bảo vệ tiếng nói chánh kiến của công dân. Đó là luật Nhân quyền.
-Chứ không phải nhà cầm quyền thi hành pháp luật không Hợp Lý với sự Tự do, Dân chủ, bình đẳng Tôn giáo và Đa phương xã hội chính kiến của công dân. Là nhà cầm quyền thi hành pháp luật ngăn cấm, bắt giam tù đày hay đàn áp đánh đập công dân là không Hợp lý. Đó là chủ nghĩa độc tài toàn trị chuyên đàn áp khống chế tiếng nói Tự do, Dân chủ, xã hội Đa phương... của công dân là không được.

KN
"Cải cách chân chính chỉ có thể có hiệu quả khi được thực hiện ngay trong tâm con người.
Những cải cách bằng sức mạnh trên thế giới bên ngoài đều rất ngắn hạn vì không có gốc rễ. Nhưng những cải cách nẩy sanh từ kết quả của sự thay đổi tâm thức bên trong con người mới có gốc rễ lâu dài. Khi những cánh cây đâm chồi mọc nhánh, chúng sẽ rút dinh dưỡng từ một nguồn không bao giờ cạn là những thôi thúc do bản năng của dòng sống đang trôi chảy. Cho nên những cải cách chỉ hữu hiệu khi tâm con người đã chuẩn bị sẵn sàng ."

http://queme.org/vi/dpgvn-12-1-2018/?fbclid=IwAR20JQz9vHEVS8G1fdn0mQlfWSjCRBZMzdbj-8_c-ndthsFToe35uSGXLZ8&v=3a52f3c22ed6

Freitag, 11. Januar 2019

Mừng Xuân độc đảng...

Đó là sự sợ hãi ngay trong tiếng nói bị áp bức của mình... Hãy quật khởi để thoát được cái sự đè nén tiếng nói, của sự độc tài trị ngăn chặn tiếng nói làm người Việt Nam.

Es ist Angst in Ihrer unterdrückenden Stimme ... Beseitigen Sie die Unterdrückung der Stimme, die Diktatur der Verhinderung vietnamesischer Stimmen.

"Bạn muốn biết tương lai của bạn, thì bạn phải nhìn ngay trong hiện tại, Để rồi bạn biết sự việc gì ngăn chặn và gây ra tương lai cho đời bạn"
Bildergebnis für bilder von Buddha und Zitat

Mừng Xuân độc đảng...

Mùa Xuân là của đất trời
Luân lưu giao chuyển bốn mùa quanh năm
Cớ sao đảng bảo dân ta
Mừng đảng, mừng xuân, mừng đất nước... ?
Câu này quán triệt thấy đảng Tham
Tham quyền, tham bạc đồng cướp bóc
Mừng đảng vinh quang ngự uy quyền...
Rạng danh nhượng đất,,, xứng đảng ta
Mừng xuân rực rở ánh sao vàng
Thủ Thiêm giãi tỏa Chùa phá nát...
Xây nhà giao hưởng cho đảng tham
Lộc Hưng tiếp bước cũng san bằng...
Phá đi nguồn sống thương phế binh
Trả thù Sân hận người cùng nước...
Kẻ đui, người cụt mất chân tay
Không nhà, không cửa do đảng phát...
Màn trời chiếu đất đón xuân sang
Mừng cho đất nước mang cờ đỏ
Màu của Si mê giết dân mình
Búa liềm đại biểu giới công, nông
Trên đe dưới búa đời bóc lột
Liềm kia đâu khác vầng trăng khuyết
Cắt tiếng dân ta bởi độc tài
Sưu cao thuế nặng dân ta gánh
Hút máu dân ta bởi đảng Tham...
Khác gì thực dân như thưở trước
Bắt sắc dân ta phải phục tùng
Môi trường bệnh tật dân ta lảnh...
Phá rừng, phá núi bởi đảng Sân...
Xuống biển mò trai dâng triều cống
Ngàn năm nô lệ sắc dân ta
Cướp đất dân ta rồi nhượng đất...
Uy quyền một cỏi bởi đảng Si...
Hoàng- Trường biển đảo bao đời giữ
Ngư trường biển cả của dân ta
Chỉ có dân ta người mất đất...
Làm người không được bởi ta ngu...
Lao tù sợ hãi trong tiếng nói
Không lẻ dân Nam giống đảng hèn...


KN