Mittwoch, 1. November 2017

Hiến pháp của những chính thể độc tài độc quyền đảng trị

Hiến pháp của những chính thể độc tài độc quyền đảng trị
Hiến pháp này có phải gần giống như hiến pháp của đảng cộng sản không. Uy quyền tuyệt đối của độc tài độc đảng trị.
"Chính ông Ngô Đình Diệm cũng đã công khai bày tỏ sự tán đồng nội dung của bản Hiến pháp này trong bài phỏng vấn của nhật báo Pháp Le Figaro ngày 23 và 24 tháng 3 năm 1959: “Cần phải nhớ lại quá khứ của chúng tôi. Chế độ chính trị ở Việt Nam thời nào cũng vậy, đã thành lập trên nguyên tắc điều khiển việc nước không phải do những đại biểu của quốc dân mà do những ông vua có những tể tướng sáng suốt phụ tá... Chúng tôi phải lập lại ở Việt Nam hệ thống luân lý như ngày xưa” [10].
Còn đảng cộng sản độc tài của Hồ Chí Minh là Lê Duẫn Tông Bí Thư đã tuyên bố. " Chúng ta đánh miền Nam là đánh cho Nga cho Tầu " Trung Quốc"

Huu Dang
Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa năm 1956 tuy là sự đóng góp trí tuệ của nhiều người nhưng cái sườn chính vẫn do ông Nhu soạn ra. Cũng như bản chung quyết của Hiến pháp trước khi biểu quyết tại Quốc Hội Lập Hiến để trở thành văn kiện căn bản của quốc gia là do ông Nhu nhuận đính và chung quyết. Bản Hiến pháp này, ngoài một vài từ ngữ mà trên mặt tượng thanh có vẻ Nhân Vị hoặc có liên hệ đến thuyết Duy Linh như “giá trị siêu việt”, “sứ mạng”, “nhân vị”, “duy linh”, “tạo hóa”,... còn nội dung thật sự của nó đã không xiển dương được chút nào yếu tính căn bản - nếu có - của thuyết Nhân Vị. Có hai lý do để giải thích hiện tượng này: Thứ nhất là vì thuyết Nhân Vị hỗn tạp quá nên không có những yếu tính đặc thù để tạo ra nét độc đáo riêng biệt cho Hiến pháp; và thứ hai là nhu cầu quyền lực chính trị quá lớn nên ông Nhu đã bất chấp cái nội dung Nhân Vị - dù còn mơ hồ chưa thành hình - để đưa vào Hiến pháp những nguyên tắc chính trị chà đạp sinh hoạt dân chủ của quốc gia và quyền tự do của công dân để tập trung quyền hành vào một thiểu số thống trị. Nghĩa là chủ xướng tối đa tính độc tài trong bộ luật căn bản và cao cấp nhất của quốc gia.
Muốn xem một hiến pháp là dân chủ hay độc tài, ta chỉ cần nghiên cứu hai quan niệm: một là quyền lực quốc gia qua hình thái tổ chức cơ cấu quốc gia thuộc về ai, và hai là quyền hành của công dân được công nhận và quy định như thế nào?
Hiến pháp Đệ Nhất Cộng Hòa, trong thiên “Điều khoản Căn bản”, điều 2, viết rằng “Chủ quyền thuộc về toàn dân” nhưng đoạn 3, điều 3 thì lại xác định “Tổng thống lãnh đạo quốc dân”[7] nghĩa là tách rời hai ý niệm “chủ quyền” và “quyền lực” ra khỏi nhau. Làm sao nhân dân có thể làm chủ được quốc gia khi Tổng thống - chứ không phải họ - lãnh đạo quốc dân?, dù “quốc dân ủy nhiệm vụ hành pháp cho Tổng thống dân cử và nhiệm vụ lập pháp cho quốc hội cũng do dân cử” (điều 3, đoạn 1). Mà “ủy” theo bản dịch Pháp văn chính thức [8] lại có nghĩa là “phong” (investir) tức là trao toàn quyền. Một cách thực tế, cứ 5 năm, người dân cầm lá phiếu để “phong” một ông Tổng thống để cai trị mình rồi trở về không còn tham dự gì vào quyền lực quốc gia nữa. Như ta sẽ thấy rõ trong bản Hiến pháp ở các mục sau cũng như trên thực tế của 9 năm cai trị, Tổng thống Diệm tập trung trong tay những quyền hành hợp hiến to lớn mà Quốc hội chỉ là một bộ phận phụ thuộc được dùng để luật hóa các quyết định chính trị của hành pháp mà thôi. Cũng do đó, nguyên tắc Phân quyền cơ bản được đề ra trong Hiến pháp chỉ còn là chiêu bài xảo trá để đánh bóng cho chế độ.
Chủ quyền thuôc về toàn dân và Tổng thống lãnh đạo quốc dân nghe không khác gì Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ... của Hiến pháp Cộng Sản hiện nay tại quê nhà. Điểm khác biệt duy nhất là Cộng Sản tập trung quyền lực vào một chính trị bộ nhiều người còn hiến pháp 1956 thì tập trung quyền lực vào một Tổng thống Diệm. Nguyên tắc chủ quyền đã bị chà đạp như thế, đến quan niệm toàn dân thì lại càng mơ hồ hơn nữa. Bản dịch tiếng Pháp đăng trên công báo là “Chủ quyền thuộc về toàn thể quốc dân” và chữ quốc dân này còn được dùng nhiều lần trong Hiến pháp.
Quốc dân, theo lý thuyết dân chủ Tây phương mà hiến pháp 1956 áp dụng, là một tập thể trừu tượng không những bao gồm thế hệ hiện tại mà còn cả các thế hệ đã qua và sau này nữa, nó là một “pháp nhân tách rời khỏi những cá nhân hợp thành quốc gia” [9], và luật có thể ấn định những điều kiện để hành xử chức năng “quốc dân” đó như điều 18 đã quy định rằng “quyền bầu cử và ứng cử phải theo thể thức và điều kiện luật định” hoặc “quyền bầu cử và ứng cử phải theo thể thức và điều kiện luật định” hoặc điều 50 xác định rằng phải hội “đủ các điều kiện khác dự liệu trong luật tuyển cử”.
Vì quốc dân (national Vietnamien) không phải là nhân dân (peuple Vietnamien) nên ngay cả cái chủ quyền mà người dân miền Nam được nắm giữ một cách trừu tượng ở phần đầu của Hiến pháp thật ra cũng chỉ là một thứ chủ quyền lý thuyết trên giấy tờ.
Như vậy, 2 nguyên lý căn bản nhất làm cơ sở chỉ đạo cho hiến pháp 1956 là Chủ quyền của ai và Ai lãnh đạo đã nói lên rất rõ ý đồ của ông Ngô Đình Nhu muốn tập trung quyền lực vào một cá nhân Tổng thống để có thể cai trị một cách độc tài, phản dân chủ. Cho nên ta không lấy làm ngạc nhiên khi thấy quyền Hành pháp của Tổng thống chẳng những đã lấn át quyền của Quốc hội mà có khi còn bao gồm cả tính Lập pháp nữa.
Tổng thống bổ nhiệm và cách chức tất cả các công chức dân và quân sự (điều 37); bổ nhiệm các sứ thần (điều 35), là tổng tư lệnh tối cao của quân đội (điều 37); có quyền ân xá, ân giảm, hoán cải hình phạt, huyền án (điều 37); ký kết, phê chuẩn các hiệp định quốc tế, thay mặt quốc gia trong việc giao thiệp với ngoại quốc (điều 35), tuyên chiến và ký kết hòa ước với sự thỏa thuận của chỉ một nửa túc số quốc hội (điều 36); tuyên bố tình trạng khẩn cấp báo động, giới nghiêm (điều 44); tổ chức trưng cầu dân ý (điều 40). Và vì các vị thẩm phán tối cao đều do Tổng thống bổ nhiệm (và được xem như một công chức có thể bị cách chức) nên trên thực tế Tổng thống chẳng những đã trực tiếp nắm gần hết mọi cơ cấu của Hành pháp từ cấp Bộ trưởng, Tướng lãnh cho đến nhân viên hốt rác, anh binh nhì mà còn có khả năng khuynh loát và điều động Tư pháp nữa. Quyền Lập pháp tuy nói là thuộc về Quốc hội (điều 55) nhưng trên thực tế Tổng thống cũng có quyền làm luật; nhưng trong khi quyền làm luật của Tổng thống thì bất khả xâm phạm ngược lại, quyền làm luật của Quốc Hội có thể bị Tổng thống khống chế. Thật vậy, ngoài cái quyền đương nhiên được chuyển dự thảo ra Quốc hội (để hầu hết) được phê chuẩn nhanh chóng (điều 56), hiến pháp 1956 còn cho phép Tổng thống, vì lý do khẩn cấp, có quyền ban hành sắc luật giữa hai khóa họp Quốc hội (điều 41), hoặc trong “tình trạng khẩn cấp, chiến tranh, nổi loạn, khủng hoảng kinh tế hoặc tài chính”, Tổng thống có thể được Quốc hội ủy quyền ra sắc luật thường xuyên (điều 41). Điều khôi hài là chỉ có Tổng thống mới được nhận định và tuyên bố trong trường hợp nào thì tình trạng trở thành khẩn cấp (điều 44).
Vì ngân sách là sức mạnh huyết mạch của chế độ nên ông Ngô Đình Nhu đã duy trì cho được điều 43 của Hiến pháp để đề phòng đối lập có thể làm tê liệt chính quyền. Điều 43 viết rằng “trong trường hợp ngân sách không được Quốc hội chung quyết trong thời hạn ấn định ở điều 60 thì Tổng thống có quyền ký sắc luật ngân sách cho tài khóa sau” và “nếu về sau Quốc hội có bác bỏ hoặc sửa đổi những điều khoản của sắc luật ngân sách thì Quốc hội phải giải quyết các hậu quả gây nên do việc bác bỏ hoặc sửa đổi”. Thật chưa có một hiến pháp nào có lối văn vừa cảnh cáo vừa đe dọa quốc dân như điều 43 này!
Cũng trong hiến pháp này, về thể thức biểu quyết của Quốc hội, “một dự án hoặc dự thảo luật được Quốc hội chấp thuận chỉ có giá trị nếu hội đủ túc số 1/3 tổng số dân biểu” (điều 69). Quy định “đa số phục tùng thiểu số” phản dân chủ này chỉ có thể giải thích bằng ý đồ chính trị đen tối của ông Nhu muốn đề phòng trường hợp tổng số dân biểu gia nô của mình bị trở thành thiểu số trong Quốc hội. Nhưng trong khi Quốc hội “dễ dãi” với Tổng thống như thế thì ngược lại khi Tổng thống phủ quyết một đạo luật của lập pháp, Quốc hội phải hội đủ túc số 3/4 khó khăn mới được tái thông qua. Mà 3/4 này phải “minh danh đầu phiếu” (điều 58) để Tổng thống điểm mặt xem ai đã dám chống lại quyền phủ quyết của mình!
Ngoài ra Tổng thống có quyền đình chỉ việc áp dụng một hoặc nhiều đạo luật trong những vùng mà Tổng thống tuyên bố tình trạng khẩn cấp (điều 44). Một viện Bảo hiến có được quy định để nghiên cứu và quyết định xem các điều khoản có bất hợp hiến không, nhưng viện này gồm 9 người thì vị chủ tịch và 4 thẩm phán hay luật gia đã do Tổng thống bổ nhiệm rồi (điều 86). Cuối cùng, Tổng thống có quyền đề nghị sửa đổi hiến pháp (điều 90) và Uỷ ban sửa đổi hiến pháp phải “tham khảo ý kiến” không những của Viện Bảo hiến (bù nhìn) rồi mà còn của cả Tổng thống nữa (điều 91).
Tóm lại, theo Hiến pháp 1956 này, cái Hiến pháp đã làm bình phong dân chủ cho chế độ Ngô Đình Diệm suốt 7 năm, thì Tổng thống có đầy đủ quyền lực để triệt tiêu hoặc làm tê liệt các đạo luật nào mà mình không vừa ý cũng như để ban hành và thi hành các đạo luật nào có lợi cho mình.
Nếu Tổng thống đã khống chế quốc hội như vậy, thì ngược lại Quốc hội có quyền gì đối với Tổng thống không ? Tổng thống không bắt buộc phải điều trần trước Quốc hội, không chịu trách nhiệm trước Quốc hội và không thể bị Quốc hội bất tín nhiệm để lật đổ. Tổng thống tiếp xúc với Quốc hội “bằng thông điệp” và nếu muốn “có thể dự các phiên họp của Quốc hội”, cũng như chỉ “khi thấy cần, Tổng thống thông báo cho Quốc hội biết tình hình Quốc gia” (điều 39).
Qua những điều kể trên, ta thấy rõ rằng khi thiết kế ra Hiến pháp này, quả thật ông Nhu đã muốn cho anh mình trở thành một thứ Đế vương phong kiến với những hình thức và ngôn ngữ có vẻ dân chủ tự do... Chính ông Ngô Đình Diệm cũng đã công khai bày tỏ sự tán đồng nội dung của bản Hiến pháp này trong bài phỏng vấn của nhật báo Pháp Le Figaro ngày 23 và 24 tháng 3 năm 1959: “Cần phải nhớ lại quá khứ của chúng tôi. Chế độ chính trị ở Việt Nam thời nào cũng vậy, đã thành lập trên nguyên tắc điều khiển việc nước không phải do những đại biểu của quốc dân mà do những ông vua có những tể tướng sáng suốt phụ tá... Chúng tôi phải lập lại ở Việt Nam hệ thống luân lý như ngày xưa” [10].
Ông Nhu đúng là vị “tể tướng sáng suốt” đã mang vị vua Ngô Đình Diệm phong kiến của thời đại quân chủ về làm nguyên thủ của nước Việt Nam Cộng hòa theo Tổng thống chế, để xây dựng tự do dân chủ cho miền Nam chống Cộng! Trách gì nước chẳng mất!
Quan niệm thứ nhì của Hiến pháp 1956 mà ta phải xét đến là quyền hành của người dân được quy định như thế nào trong chương “Quyền lợi và nhiệm vụ của người dân”. Đây cũng là chương nói lên rõ ràng nhất cái kỹ thuật lừa bịp tinh vi của ông Ngô Đình Nhu, cha đẻ của Hiến pháp 1956, phát xuất từ sự đánh giá sai lầm sức mạnh của một chế độ dân chủ tự do, và sức mạnh vô địch của quần chúng trong cuộc chiến tranh chống lại một kẻ thù như Cộng sản.
Phát xuất từ quan niệm cơ bản rằng chỉ cần một chính quyền mạnh (trong nghĩa bạo lực quân sự hoặc bạo lực chính trị) là chế độ có thể tồn tại vững bền, Hiến pháp 1956 đã nhân danh chủ nghĩa chống Cộng để kiểm soát và giới hạn tối đa mọi quyền tự do và dân chủ của người dân. Quan niệm này không đếm xỉa đến nhân dân như là sức mạnh trụ cột và trường kỳ của miền Nam Việt Nam, cũng như không đếm xỉa đến sinh hoạt dân chủ như là vũ khí hữu hiệu nhất để đối kháng với kẻ thù.
Thật vậy, sau khi đã mở đầu Hiến pháp với một mớ từ ngữ ma quái trong triết lý Duy linh và sau khi đã bắt buộc phải xác định một cách không thể tránh được những nguyên lý căn bản mà Hiến pháp nào (kể cả Hiến pháp Cộng sản) cũng phải đề ra như “quốc gia công nhận và bảo đảm những quyền căn bản của con người” (điều 5), “mọi người dân đều có quyền sinh sống tự do và an toàn” (điều 9), thì đến lúc đi vào từng chi tiết cụ thể của từng sinh hoạt của người dân, mọi điều đưa ra cho có vẻ tự do dân chủ đều bị giới hạn lại ngay bằng một điều khác liền.
Hiến pháp xác định “quyền tự do nghiệp đoàn và quyền đình công được công nhận” nhưng điều 25 ngay sau đó lại nói rằng việc sử dụng các quyền này phải “theo những thể thức và điều kiện luật định” (Luật định như Dụ số 23 về việc thành lập Nghiệp đoàn bắt phải nộp điều lệ để chính quyền cứu xét và quyết định, nhưng Dụ này lại không định ra một giới hạn nào cả về thời gian cứu xét). Hiến pháp cũng xác định có quyền đình công nhưng cũng ngay trong điều 25 đó thì “quyền đình công không được thừa nhận đối với nhân viên và công nhân trong các ngành hoạt động liên quan đến quốc phòng, an ninh công cộng hoặc các nhu cầu thiết yếu của đời sống tập thể” nhưng lại không có một văn kiện “luật định” nào giải thích rõ ràng các ngành đó cả mà chỉ do Tổng thống hoặc chính quyền xác định lấy.
Cũng vậy, nói rằng ‘tính cách riêng tư của thư tín không thể bị xâm phạm” nhưng lại thêm “trừ khi cần bảo vệ an ninh công cộng hay duy trì trật tự chung” (điều 12); cho người dân có quyền “tự do đi lại và cư ngụ” rồi lại thêm ngoại trừ trường hợp “luật pháp ngăn cản vì duyên cớ vệ sinh hay an ninh công cộng”; xác định người dân có quyền “tự do xuất ngoại” nhưng trừ “trường hợp luật pháp hạn chế vì lý do an ninh, quốc phòng, kinh tế, tài chánh hay lợi ích công cộng” (điều 13); nói rằng có quyền “tự do hội họp và lập hội” nhưng giới hạn “trong khuôn khổ luật định” (điều 15); Hiến pháp cũng công nhận là “chỉ có thể bắt giam người khi có câu phiếu của cơ quan có thẩm quyền” mà lại không xác định “cơ quan có thẩm quyền” là những cơ quan nào cho nên sau này có rất nhiều cơ quan mật vụ an ninh chìm nổi của ông Nhu, ông Cẩn, không nằm trong hệ thống của Bộ Tư pháp mà vẫn có quyền bắt người dù có hoặc không có câu phiếu.
Nói chung, để kiểm soát và bóp nghẹt quyền của người dân, Hiến pháp 1956 đã tung ra một mớ gươm Damoclès treo trên đầu người dân với những từ ngữ mà chính quyền muốn giải thích như thế nào cũng được như “điều kiện luật định, lý do quốc phòng, an ninh công cộng, an toàn chung, trật tự chung, lợi ích công cộng, đạo lý công cộng...” Và để bảo đảm tối đa sự kiểm soát này, Hiến pháp còn nâng chủ trương nầy lên thành nguyên tắc tổng quát trong điều 28: “quyền của mỗi người đều được xử dụng theo những thể thức và điều kiện luật định”. Điều 28 quỷ quyệt này đóng kín một cách hoàn toàn và vĩnh viễn tất cả mọi hy vọng của người dân về mọi sinh hoạt dân chủ và an toàn cá nhân dưới chế độ, đồng thời trao lại một cách hoàn toàn và vĩnh viễn quyền sinh sát vào tay một thiểu số gia đình họ Ngô đang nắm quyền lực trong tay.
Ngoài ký giả Shaplen (trong bài The Cult of Diem) đã nặng lời chỉ trích Hiến pháp 1956 của Đệ nhất Cộng hòa, nhiều luật gia Việt Nam tên tuổi cũng đã nghiêm khắc lên án Hiến pháp đó là độc tài, cổ hủ không liên hệ gì với thuyết Nhân Vị cả. Luật gia Đoàn Thêm trong “Những ngày chưa quên” đã phải bỏ ra 11 trang (kể từ trang 23) để phân tách sự liên hệ giữa thuyết Nhân Vị và Hiến pháp Đệ Nhất Cộng hòa, liên hệ giữa Hiến pháp và Quốc hội, giữa Quốc hội và Tổng thống, đã có một nhận xét như sau đây:
Triết lý chính trị của ông (Ngô Đình Nhu) muốn đưa ra, đã được tóm tắt trong đoạn mở đầu và phần căn bản của Hiến pháp 26-10-1956, lại được nhấn mạnh... đã thành khẩu hiệu chính thức. Tuy nhiên, những ý tưởng này chỉ thể hiện ra hai thiên đầu của hiến pháp 1956. Còn ở phần cơ cấu chính quyền, nghĩa là khi chuyển sang phần ứng dụng, và nếu xét về luật công pháp thì rất khó thấy tương quan gì giữa lý thuyết Nhân Vị và các guồng máy quốc gia. Bởi thế, năm 1956 tôi không hoài nghi, tuy một số người hài lòng và cho là lần đầu tiên chúng ta mới kiến tạo được trên một căn bản triết lý chính trị vững vàng. Trái lại, tôi đã ghi nhận áp lực rất mạnh mẽ của thực tế, của nhân vật và thời cuộc trong việc xây đắp móng nền của chế độ.
Luật gia Nguyễn Hữu Châu, giáo sư đại học Luật khoa Paris, nguyên Bộ trưởng Bộ Phủ Thủ tướng VNCH năm 1957, 1958 và có liên hệ với chính tình miền Nam, đã có những phán xét không tốt đẹp gì cho Hiến pháp Nhân Vị 1956 của Đệ nhất Cộng hòa. Trong Luận án Cao học Luật khoa (Mémoire DES, 1960) ông Nguyễn Hữu Châu (hiện ở Pháp) sau khi phân tách từng chương từng mục đã kết luận rằng:
“Xét đến lịch sử các cơ chế và tư tưởng chính trị của Việt Nam, thật khó mà không công nhân rằng hệ thống của Hiến pháp ngày 26-10-1956 quả là một sự thoái hóa so với hệ thống chính trị cổ truyền. Tại vì Hiến pháp 26-10-1956 đã giữ lại những gì kém tiến bộ nhất của chế độ xưa cũ, rồi bổ túc bằng những sự kiềm chế tân tiến nhất.
Do đó mà cái ý niệm về lãnh đạo (leadership) được trình bày trong bản dịch chính thức của Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa không có cái ý nghĩa mà các nhà Xã hội học Mỹ trao gửi lúc đầu.
(Dans l’histoire des institutions et des idées politiques du Vietnam, il sera difficile de ne pas reconnaitre que le système de la constitution du 26 Octobre 1956 constitua une regression par rapport au système politique traditionnel. Car il a repris de l’ancien système ce qu’il a le moins progressiste pour le completer par les moyens de contrainte les plus modernes. Ainsi cette notion de Leadership qui figure dans la traduction officielle de la Constitution de la République du Vietnam n’a pas le sens que les sociologues Américains lui donnent original).
Còn giáo sư Nguyễn Văn Bông, Thạc sĩ Công Pháp, Viện trưởng Viện Quốc gia Hành chánh Sài Gòn thì trong đoạn kết của giáo trình năm thứ nhất Cử nhân Luật về môn Luật Hiến pháp và Chính trị học của Đại học Luật khoa Sài Gòn, đã viết rằng:
Thật vậy, ngay ở điều khoản thứ ba, chúng ta nhận thấy “Tổng thống Lãnh đạo Quốc gia”. Tổng thống bổ nhiệm và cách chức các sứ thần cùng công chức cao cấp không cần ý kiến của Quốc hội. Trái với nguyên tắc phân nhiệm mà điều 3 ghi rõ là “nguyên tắc phân nhiệm giữa hành pháp và lập pháp phải rõ rệt”. Hiến pháp 1956 dành cho Tổng thống quyền ký sắc luật giữa hai khóa họp Quốc hội, quyền ký sắc lệnh tuyên bố tình trạng khẩn cấp, báo động hoặc giới nghiêm.
Một sự tập trung quá mức quyền hành cùng sự thủ tiêu đối lập và sự hiện diện của một chính đảng duy nhất đã đưa chế độ Ngô Đình Diệm lần lần đi đến một chế độ quyền hành cá nhân áp dụng những phương tiện chuyên chế mà tiếng súng ngày 1-11-1963 đã đưa vào dĩ vãng.

Gió thu

Mùa thu rực rở nắng vàng
Lá vàng lác đác trong hồ nước xanh
Mặt hồ soi bóng thân em
Không người bên cạnh nâng đôi vai gầy
Gió thu thổi buốt từng cơn
Lòng em run lạnh không người chở che
Mong manh cảm giác sầu đông
Em cần hơi ấm trong đời có anh....
Sầu đông lặng lẻ không còn
Tình người tình nước như mặt hồ xanh
Gợn vầng sóng nhỏ lăn tăn
Kề nhau tiếp nối cho đời nở hoa
Hoa vàng nở cánh tự do
Cho đời dân chủ tình người nước non
Đa nguyên rực rở nắng vàng
Là nguồn hơi ấm làm người nước Nam...



KN

Dienstag, 31. Oktober 2017

Việt Nam
Đôi lúc mình cũng suy nghĩ hoài mà không hiểu tại sao? Con người tin "cóTrời có Đất" mà lại đi phá họai Môi sinh..., Môi trường... cuộc sống con người của mình ngay tại chính Quốc gia của mình. Không cho con người có cuộc sống được quyền phát biểu sự "Tự do ngôn luận, Dân chủ quyền của con người trong cuộc sống xã hội Đa nguyên..." Để bảo vệ sự sống còn Quốc gia của mình đang trên đà bị Hán hóa..." Trung quốc "
KN

Vietnam
Manchmal denke ich auch über die Vergangenheit nach, ohne zu verstehen warum. Die Leute glauben, dass "es gibt der Gott und die Erde", aber gehen, um die Umwelt ... Menschenleben in seinem eigenen Land zu zerstören. Den Menschen nicht das Recht zu gewähren, die "Redefreiheit, die Demokratie des Menschen im sozialen Leben Plural ..." auszudrücken, wird im Schutz des Lebens des Landes respektiert. ist auf dem Schwung von Han Dynastie ... "China"

KN
Ta như một cánh chim trời
Mang theo tiếng nói con người tự do
Xây dựng dân chủ trong ta
Cất lên tiếng nói những lời phải chăng
Đa nguyên xã hội nước nhà
Quốc gia vững mạnh như là Tây phương...

Huu Dang
“Trong xã hội dân chủ không phải mọi người đều hoàn hảo. Tương tự, qua giao thiệp với đồng loại con người phát triển quan điểm niềm tin về nghiệp báo. Chính quan điểm này, Phật giáo cho rằng: một người có thể và phải hoàn hảo qua thể hiện thiện nghiệp (hành vi tốt) của anh ta… Bất kỳ xã hội nào tôn thờ tín ngưỡng về học thuyết định mệnh thì kết quả sẽ nhốt kín con người vào một thế giới tư tưởng và hành động ở đó con người không còn hoạt động tự do nữa, và tự do không thể thực hiện bằng nỗ lực của mỗi cá nhân. Vị trí của Phật giáo được xác định chắc chắn ở đó. Phật giáo ắt hẳn cống hiến lớn cho tình thương và tự do, được thực hành một cách dân chủ ở các quốc gia và còn là niềm tự hào của họ”.
Tinh thần dân chủ theo nhà Phật
Hầu hết, các nhà tư tưởng đều cho rằng hành trạng và giáo lý của Đức Phật luôn thể hiện tinh thần dân chủ. Mặc dù Đức Phật được biết đến như người đầu tiên sáng tạo ra triết lý hay đạo mà chúng ta gọi là Phật giáo và đã trực tiếp truyền giảng giáo lý đó, Ngài không bao giờ tự đặt mình vào vị trí nổi bật này. Ngài không ép buộc mọi người phải theo mình. Đối với mọi vấn đề, Ngài đều khuyên mọi người nên suy xét trước rồi mới chấp nhận qua sự thấu hiểu và tu chứng bản thân. Ngài không có ý định thay đổi cá tính của đệ tử. Vì vậy trong Phật giáo, cá tính của con người luôn được tôn trọng. Giáo pháp của Đức Phật được Ngài giảng dạy theo đường lối lý tưởng nhất, không giáo điều, không ép buộc. Nếu đệ tử muốn trình bày điều gì, vị ấy được đề nghị phải giữ tâm mình trong trạng thái hoàn toàn trung thực. Đây là lối giáo dục mà người Việt Nam chúng ta đã tiếp thu từ lâu.
Đức Phật là bậc chiến thắng, không phải chiến thắng kẻ thù mà đã chiến thắng cái gọi là các yếu tố nền tảng để hình thành bản chất con người, từ đó mà đạo Phật đã thu hút nhiều người quy ngưỡng Tam bảo. Các yếu tố dẫn đến một đời sống có trí tuệ và một tâm hồn bình an đều là những nhận thức về bản chất con người của Đức Phật. Nhờ những giáo pháp này mà những người Phật tử có thể cống hiến khả năng của mình vào việc xây dựng một nhân sinh quan và lối sống dân chủ.
Đức Thế Tôn xem tất cả mọi người đều bình đẳng, Ngài tôn trọng ngay cả những người bị xã hội Ấn Độ cổ coi là hạ đẳng và Ngài không hề hối tiếc về việc từ bỏ giai cấp quí tộc của mình. Ngài phê bình “giai cấp” là biểu hiện của sự phân chia nguồn gốc xuất thân của con người trong xã hội. Ngài đồng ý có vua, có giáo sĩ Bà-la-môn trong quốc gia Ấn Độ cổ đại. Ngài thừa nhận có sự bất công trong xã hội vì Ngài biết rằng sự công bằng chân thật không bao giờ có mặt ở thế giới hiện tượng này. Nhưng Ngài cho rằng một người Bà-la-môn chân chính hoặc một vị minh quân không xuất phát từ giai cấp hay dựa trên những biểu hiện bề ngoài mà phải có giá trị thực sự từ bên trong; đó là tư tưởng nhân ái và tính cách cao thượng.
Giáo pháp của Đức Phật đã khéo biện minh để hóa giải những xung đột giai cấp trong xã hội. Một trong những nền tảng được chấp nhận trong một xã hội dân chủ là nó phải được thiết lập và nên được thiết lập qua tính đa dạng của các cá nhân; đồng thời, tính cách của mỗi cá nhân đều phải được bảo vệ. Đây là giáo lý về nghiệp, giáo lý này đã được phổ biến rộng rãi trong tư tưởng Ấn Độ. Một người trở nên tốt qua việc làm tốt và trở nên xấu do việc làm xấu. Người phương Tây bảo đây là giáo lý về trách nhiệm cá nhân.
Theo GS. Kurt F. Leiderker “Trong xã hội dân chủ không phải mọi người đều hoàn hảo. Tương tự, qua giao thiệp với đồng loại con người phát triển quan điểm niềm tin về nghiệp báo. Chính quan điểm này, Phật giáo cho rằng: một người có thể và phải hoàn hảo qua thể hiện thiện nghiệp (hành vi tốt) của anh ta… Bất kỳ xã hội nào tôn thờ tín ngưỡng về học thuyết định mệnh thì kết quả sẽ nhốt kín con người vào một thế giới tư tưởng và hành động ở đó con người không còn hoạt động tự do nữa, và tự do không thể thực hiện bằng nỗ lực của mỗi cá nhân. Vị trí của Phật giáo được xác định chắc chắn ở đó. Phật giáo ắt hẳn cống hiến lớn cho tình thương và tự do, được thực hành một cách dân chủ ở các quốc gia và còn là niềm tự hào của họ”.
Nguyên Cẩn

Mittwoch, 18. Oktober 2017


Bản tin 2 năm về trước

Phát ngôn ấn tượng của tân Bí thư Thành ủy trẻ nhất nước

"Chức vụ là do Đảng phân công, người lãnh đạo phải nghĩ đây không phải quyền lực mà mình được hưởng thụ cho cá nhân hoặc cho gia đình mà tùy tiện muốn làm gì thì làm" là phát ngôn ấn tượng đầu tiên của tân bí thư Đà Nẵng Nguyễn Xuân Anh. 
Như tin đã đưa, ông Nguyễn Xuân Anh, Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng vừa được bầu giữ chức Bí thư Thành ủy Đà Nẵng nhiệm kỳ 2015-2020 thay ông Trần Thọ. Theo ghi nhận của báo chí, nhậm chức ở tuổi 39, ông là Bí thư Thành ủy trẻ nhất cả nước cho đến thời điểm hiện nay. 
Hình ảnh Phát ngôn ấn tượng của tân Bí thư Thành ủy trẻ nhất nước số 1

Tân Bí thư Đà Nẵng Nguyễn Xuân Anh. Ảnh: báo Đà Nẵng

Trong phiên bế mạc vào chiều qua, ông Nguyễn Xuân Anh đã có bài phát biểu đầu tiên sau khi nhậm chức dài 13 phút. 
Tân Bí thư thành ủy Đà Nẵng cảm ơn sự tín nhiệm của đảng bộ, nhân dân Đà Nẵng dành cho ông và cho rằng đây "mênh lệnh không điều kiện, đòi hỏi bản thân tôi phải đem hết trí tuệ và tâm sức phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân".
Sau khi thẳng thắn nhận xét việc quản lý thành phố thời gian qua, trong đó có cả những khuyết điểm, ông Xuân Anh cho rằng "chúng ta phải biết sửa sai vì một bộ phận nhân dân vẫn còn nghèo khó". Thành phố cần phải sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực - đây là nguồn tài nguyên quý giá nhất hiện nay của thành phố để phát triển. 
Đề cập đến vấn đề chống tham nhũng, lãng phí, tân Bí thư thành ủy Xuân Anh cho rằng "lãng phí là xúc phạm đến lòng tin của dân, tham nhũng là có tội với nhân dân". Ông khẳng định sẽ kiên quyết chống tham nhũng và các biểu hiện tiêu cực, không khoan nhượng với nạn "chạy chức, chạy quyền", kiên quyết chống "thị trường ngầm và thương mại hàng hóa công tác tổ chức cán bộ" và mong muốn "làm sao để phòng chống tham nhũng trở thành trào lưu mới của thành phố".
"Chức vụ là do Đảng phân công, người lãnh đạo phải nghĩ đây không phải quyền lực mà mình được hưởng thụ cho cá nhân hoặc cho gia đình mà tùy tiện muốn làm gì thì làm", ông nhấn mạnh.
Ông Nguyễn Xuân Anh (39 tuổi, quê Hòa Vang, TP Đà Nẵng). Ông từng đảm nhiệm các chức vụ như phó bí thư Thành ủy Đà Nẵng khóa XX (nhiệm kỳ 2010-2015); Phó chủ tịch UBND TP Đà Nẵng; Bí thư Quận ủy Liên Chiểu; Phó Bí thư Quận ủy Liên Chiểu; Phó Chủ tịch Thường trực UBND quận Liên Chiểu; Phó giám đốc Trung tâm Xúc tiến đầu tư Đà Nẵng và từng làm việc tại báo Thanh Niên.
Tháng 2/2014, Ban thường vụ Thành ủy Đà Nẵng thống nhất giới thiệu ông Nguyễn Xuân Anh vào chức vụ Phó bí thư Thành ủy Đà Nẵng nhiệm kỳ 2010 - 2015 và được Bộ Chính trị, Ban Bí thư phê chuẩn.
Được biết, ông Nguyễn Xuân Anh là con trai của ông Nguyễn Văn Chi, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng.
H.Minh (tổng hợp Nguồn : Người đưa tin



Còn độc tài độc quyền đảng trị dù ông này có xuống, ông khác lên thay thì đâu vẫn hoàn lại đó không thể nào thay đổi được. Quốc gia lại cứ xới tung lên cho nhóm tham nhũng, lợi ích phá hoại mới và biển đảo cùng môi trường cứ càng ngày càng xa vời khỏi tầm tay nhân dân Việt Nam.

Một câu nói nằm lòng của những đảng viên trong chế độ tự do đa đảng phái "Đức". Đảng phái là do dân thành lập và tham gia vào chính quyền để chống sự lạm dụng bất công. Người được dân bầu chọn là người sẽ thực hành theo chỉ tiêu ý nguyện của nhân dân cũng như các đảng phái khác đồng ý trên một quan điểm chung. Chống lại sự lạm dụng quyền lực như trong chế độ độc đảng trị.
Còn Việt Nam nằm trong chế độ độc tài độc đảng. lời nói có được thực hành hay không? Đó là một vấn nạn ngay trước mặt. Chủ quyền biển đảo chỉ là những lời tuyên bố suông không dám thực hành.

Khi độc tài độc quyền đảng trị
Một nhà độc tài trị thì sẽ có người cố bênh vực là không độc tài dù chứng cớ rành rẻ. Cũng giống như bây giờ chế độ cộng sản độc tài trị bênh vực Hồ Chí MInh là một nhà yêu nước có tầm vóc mặc dù có chứng cớ của những cựu đảng viên hay người thân bị nạn trong vụ cải cách ruộng đất hay nhân văn giai phẩm ngoài Bắc. Và công hàm Phạm Văn Đồng 1958 công nhận 12 Hãi Lý của Trung Quốc trên vùng đảo Nam Sa "Hoàng Sa và Trường Sa" trong thời đại Hồ Chí Minh cầm quyền. để lấy vũ khí xâm chiếm miền Nam bằng vũ lực cho Trung Quốc.
Trong chế độ độc tài họ chỉ học qua ban tuyên giáo của độc đảng trị, để giữ mọi quyền hành tuyệt đối của nhân dân trong mọi vấn đề của xã hội. Mà nhân dân không được phép lên tiếng nói "Tự do ngôn luận" của mình trong tất cả mọi vấn đề cùa Quốc gia đều bị ngăn cấm. Những ai lên tiếng nói đều bị đe dọa và bắt bỏ tù.
Những ai muốn làm chính trị thì bắt buộc phải qua khóa học " Wirtschaftspolitik". Chính trị xã hội học mới có thể hướng dẫn người dân, hay các đồng nghiệp chung một đảng phái về tất cả mọi mặt của xã hội trị, mà các Quốc gia Đa đảng phái thực hiện như " Môi trường, môi sinh, hối lộ, tham nhũng v.v..." Mới chống được quyền lực độc tài tham nhũng của độc đảng quyền trị. Đại học chính trị xã hội học là dành cho tất cả mọi công dân mong muốn phục vụ cho một Quốc gia được vững mạnh trên tất cả mọi nghành như trước 1975 "Đại học Vạn Hạnh" tại Sàigòn. Sau 1975 đã bị Chính quyền độc tài cộng sản giãi tán.

KN

https://www.studium.uni-kiel.de/de/studienangebot/studienfaecher/wirtschaft-politik-ba-lehramt

Sonntag, 15. Oktober 2017

Trên tất cả đỉnh cao là lặng im


Trên tất cả đỉnh cao là lặng im (*)


Chứng kiến nhiều trận lũ lụt tang thương nơi xứ Việt, tôi vẫn hay tự nhắc mình phải viết một bài hát nào đó về những điều đã thấy, về những sinh linh đã tận. Ca hát thì chẳng để làm gì. Nhưng tôi mong mình cất lên được tiếng lòng như bài văn tế nhỏ cho những người cùng màu da, tiếng nói trên quê hương mình hôm nay, sao vẫn mang đầy khổ nạn. Có thể tôi chỉ hát khe khẽ thôi, vừa đủ cho những linh hồn oan khiên về quanh được chút ấm lòng.
Thế nhưng, nhiều năm trôi qua. Lũ lụt hết lần này đến lần khác. Mạng người lại vẫn chìm sâu. Tôi lại chất chồng trong ký ức của mình về ruộng vườn tan hoang, những tiếng khóc trôi dạt buồn tủi, và biết rằng mình sẽ không viết nổi một bài hát như vậy, mà chỉ còn im lặng. Sự im lặng khó tả nằm hoài trên trang giấy và suy nghĩ, như khoảng vô thanh điên loạn giữa rầm rộ ngôn từ.
Thống kê tạm của đài VOV trong ngày 15/10/2017, nói rằng đã có 60 người chết, 37 người mất tích và 31 người bị thương. Bên cạnh đó còn 189 nhà bị sập, 30.827 nhà bị ngập, 1.948 nhà phải di dời khẩn cấp, hàng chục ngàn gia súc, gia cầm chết ngập. Tháng trước, bão số 10 cũng làm 125 người chết và mất tích, thiệt hại tài vật cũng vô số.
Những con số thì vô hồn. Những nếu chỉ một lần nhìn thấy hình ảnh đứa trẻ co ro trần truồng chìm trong nước, bà cụ với đôi tay giơ lên như muốn níu lại phút giây sau cùng, bất kỳ ai cũng có thể cảm nhận khoảng lặng trong lòng mình. Khoảng lặng nhắc chúng ta cũng là con người, và phải biết xót xa cho đồng loại.
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nói rằng “Rừng là vàng, chặt 1 cây gỗ cũng phải thắp hương lạy cây”.  Nghe mà rưng rưng cho phận làm người Việt. Phải thắp bao nhiêu nén hương cho những người vừa chết đêm qua? Bao nhiêu hương thì mới ấm lại thịt da đã xanh tím của đứa bé giữa rong rêu? Bao nhiêu hương thì tiễn được nỗi niềm của cụ già khỏi dòng tức tưởi? Lời thủ tướng Phúc nói, vào ngày 14/10, cũng là những ngày tìm thấy từng xác người lây lất. Không nghe ông nghe nói gì về nạn nhân thiên tai và nhân tai, chỉ nghe ông nói bái lạy và vàng.
Ngày 13/10, đáp lại lời hò reo xúc động của cử tri về sức khỏe của mình, ông Trần Đại Quang cũng không nói gì về thảm nạn đang diễn ra suốt nhiều tỉnh miền Bắc và miền Trung, mà chỉ nhấn mạnh về thông tin xấu độc trên mạng. Không biết có liên quan gì, mà đến 15/10, các trang facebook đưa hình ảnh và thông tin đáng lưu ý về thiên tai lũ và nhân tai lụt đột nhiên đồng loạt khóa bài, ẩn các hình ảnh đã đăng, đồng bộ với các bản tin báo nhà nước hết sức chừng mực và tiết kiệm hình ảnh thực tế.
Nơi của ông thủ tướng và chủ tịch thật náo nhiệt. Điều đó thật tương phản khi tôi nhìn vào tấm hình người phụ nữ ngồi thắp một nén nhang vào hư vô. Gương mặt của chị ẩn trong đó ngàn bài ca mà tôi không viết nổi thành lời. Nén hương ân cần gửi vào gió, hát vào khốn cùng mà chỉ có những trái tim Việt Nam còn đủ nhân tính mới chia sớt cùng những số phận Việt Nam.
Cuộc sống hôm nay như một sân khấu hai mặt. Một mặt trình diễn những dị thường và một mặt giới thiệu từng giờ phút của đời thường. Mà phần dị thường, có cả tiếng các quan chức thời tiết, thủy điện… luôn phủi tay và nói mọi thứ đã đúng quy trình, đẩy phần còn lại là may rủi của nhân dân. Loại quy trình thô bỉ ấy vẫn diễn ra hết năm này qua năm khác không hề có kế hoạch đổi thay nào tốt hơn cho đời sống dân lành. Nhưng phần các quan chức thì luôn biết cách dời xa, dời cao để không cùng chung số phận với nhân dân.
Cứ sau những thảm họa, nghe các ngôn từ chải chuốt ngụy biện và lẩn tránh trách nhiệm của họ, không khỏi buồn nôn. Loại ngôn từ trá ngụy mà W. Shakespeare từng mô tả “khi cần thì bọn ác quỷ có thể dùng cả kinh thánh để biện minh cho hành động của chúng”.
Thật khó biết còn bao nhiêu người phải chết trong nước lũ từ đây về sau. Và cũng thật nhục nhã cho một quốc gia luôn huênh hoang về bước đại phát triển 4.0 nhưng hàng năm vẫn phải tế sống dân mình cho nước dữ như thời man rợ.
Tôi xếp trang giấy trắng, xếp lại bài hát mà mình ôm ấp. Tôi cũng không nói gì được về những gì mình đã thấy, đã nghe. Không gian đã quá chật chội với những âm thanh chúc tụng và ca ngợi. Tôi chỉ còn đủ sức giữ lại cho mình sự im lặng. Loại im lặng như M. Heidegger từng mô tả rằng “Sự im lặng như sấm sét còn gây nên chấn động cho tâm thức còn hơn cả tiếng sấm sét trong cõi im lặng”.
Một ngày nào đó, nếu bạn cũng cùng im lặng với tôi trong ít phút giây, có thể chúng ta sẽ cùng nhận ra đất nước và con người Việt Nam đang huyên náo trên những nỗi đau như thế nào.
(*) tựa một tác phẩm của Phạm Công Thiện.
https://nhacsituankhanh.wordpress.com/2017/10/15/tren-tat-ca-dinh-cao-la-lang-im/


Khi nhân dân Việt Nam cứ sống trong nỗi sợ của sự "Nhẫn nhục", mà không dám nói lên tiếng nói thay đổi cuộc sống đường đời của mình. 

Tâm niệm: 

Đời người ai cũng phải chết
Chết sao cho đúng làm người công dân
Không sợ không hãi không than
Mang thân tù tội một phen với đời
Đời này là của chúng ta
Không thuộc đảng trị độc quyền hại dân
Một lần tỏ mặt anh hào
Một lần lên tiếng đòi quyền công dân
Vượt qua nỗi sợ oan khiên
Là ta thắng lợi ngay trong tâm mình...


KN

Freitag, 13. Oktober 2017

Sự đời...


Sự đời... Ở đời không trách không chê Làm sao biết được người gian bán hàng Độc tài không trách không chê Làm sao lấy được công bằng người dân Kiếp này đã trót làm người Làm người chính trực quang minh cho đời Làm người dối trá gian hùng Kiếp này vinh hiển kiếp sau nợ đời Đừng tưởng chỉ có trăm năm Chết xong là hết thấy gì kiếp sau Kiếp sau quả báo nhãn tiền Ăn xin bệnh tật... là do kiếp này Ờ đời có trách có chê Là mong xây dựng cho đời yên vui Độc tài độc trị đảng quyền Không chê không trách phải chăng là người...? KN Bạn đừng tưởng chỉ có mình bạn giữa những sự im lặng của Rừng Người như bãi cát "Sa Mạc". Cũng có những cơn gió bảo ập tới cuốn bay đi tất cả những dấu chân bạn để lại. Nhưng cái bóng "Tốt và Xấu" của bạn luôn để lại trong cuộc sống của bạn. "Hãy Thay Đổi" KN Sư Ông Làng Mai và những lời dạy Này các bạn tu, nếu nắm được cái then chốt này thì nên áp dụng ngay vào đời sống hàng ngày. Đừng nên vướng vào danh tự. Tôi gọi đó là huyền chỉ (nguyên tắc mầu nhiệm). https://scontent-frt3-1.xx.fbcdn.net/v/t1.0-9/11219064_922079417872849_2684189477434501496_n.jpg?oh=7a92a5dc2ce25ad72e76d936226f6cf8&oe=5A6F7094

Donnerstag, 12. Oktober 2017

..Lò bán nước

..Lò bán nước

Bác Trọng nhà ta tay đốt lò
Làm bộ làm tịch ta dân chủ
Đánh dẹp tham nhũng vẫn nương tay
Kỹ luật hình thức cho phải đạo
Ta đây cũng chung một giống lò
Từ độc tài tham nhũng mà ra
Quyền cao chức trọng văn bằng giả
Nhờ vào công sức của đảng ta
Học tập tư tưởng Hồ vĩ đại
Đạo đức gia phong phải bao che
Trừng trị răn đe dân mở miệng
Dám nói đảng ta phường nhượng đất
Cho bạn vàng bốn tốt đảng ta
Đảng ta đảng bạn một giống đảng
Láng giềng hữu nghị... tới tương lai       
Văn hóa tương đồng... hợp toàn diện                                                                                 
Khác gì bên kia biên giới là nhà                                                               
Bên đây biên giới cùng nhà nước ta
Biển Đông hãi đảo xa xăm
Cùng chung một nước một nhà Trung Hoa


KN

Bốn tốt của anh bạn vàng ban cho đảng ta 1991, khi Đông Âu gia nhập "Tự do Dân chủ Đa đảng phái" cho người dân và đất nước. Vì độc trị đảng quyền "cộng sản" độc tài tham nhũng Việt Nam đã giành bán rẻ sinh mạng nhân dân ta qua sự kiện xóa mờ dấu vết cuộc chiến biên giới Việt Trung1979 kéo dài cho tới 1989 và đảo Gạc Ma thuộc Trường Sa 1988 không cho nhân dân được biết và tưởng niệm. Chấp nhận mất đất trên vùng biên giới Việt Bắc, Thác Bản Giốc, một phần vịnh Bắc Bộ và HS- TS để giấu diếm công hàm Phạm Văn Đồng công nhận 1958 trong thời Hồ Chí Minh lảnh đạo.
 
" Sơn thủy tương liên,
    Lý tưởng tương thông,
    Văn hóa tương đồng,
    Vận mệnh tương quan" 



"Điều gì nó gây ra sự cản trở cho bạn chống lại?
Nếu tôi ngừng sự đấu tranh, tôi sẽ mang theo để tiến hành. Đó là định luật bản năng sinh tồn của con người. "Tự do..."
Một con người thật sự của Tự do... không bao giờ ngừng nghĩ trong công việc đòi hỏi Dân chủ đa nguyên... cho đất nước để thoát khỏi nền móng bị trị của độc tài
KN
Ein wahres menschliches Wesen der Freiheit ... hört nie auf, in der Arbeit des anspruchsvollen Pluralismus zu denken ... für das Land, um der diktatorischen Herrschaft der Diktatur zu entkommen

Bildergebnis für seelen begegnen einander niemals zufällig

Dienstag, 10. Oktober 2017

Tổ quốc gọi tên...

Việt Nam
Vì bản năng sinh tồn tự do dân chủ của con người, chúng ta phải nói ra cái sai trái của chế độ độc tài trị chuyên đàn áp người dân vì tiếng nói. Để độc quyền nhượng đất, biển cho Trung Hoa.
Vietnam
-Wegen der instinktiven Existenz der demokratischen Freiheit müssen wir das Fehlverhalten des autoritären Regimes der Unterdrückung der Menschen wegen ihrer Stimme sagen. Land und Meer für China zu monopolisieren.
"Chúng ta sợ trước cái chết, chúng ta sợ trước sự chia cắt "tách rời", chúng ta không phải sợ cái gì hết."
-Wir haben Angst vor dem Tod, wir haben Angst vor der Trennung,
wir haben Angst vor dem Nichts.
"Nếu chúng ta có cái nhìn thẳng thắn vào sự thật, chúng ta thấy rằng những đồ vật cũng thay đổi thì chúng ta không phải sợ cái gì hết."
-Wenn wir aber tief schauen, erkennen wir den unaufhörlichen Wandel der Dinge und verlieren allmählich unsere Angst.  Thich Nhat Hanh

Tổ quốc gọi tên...
Tổ quốc tôi tiếng gọi từ biển cả
Của Mẹ hiền theo tiếng sóng kêu vang
Những oan hồn vất vưỡng theo triều sóng
Mong bám giữ lại mảnh đất quê hương
Trên cao nguyên tiếng rên hờn oán trách
Của núi rừng theo làn gió đong đưa
Phá rừng nhượng đất loài tư tưởng...
Đất tổ tiên ta mất từng phần...
Tổ quốc tôi cùng chung một tiếng nói
Bằng tình thương tiếng nói của dân tôi
Học làm người đứng thẳng ngẫng cao đầu
Cho niềm tin nước nhà sẽ tự do...


KN

Bild könnte enthalten: 1 Person, im Freien