Mittwoch, 22. Februar 2017

Ông ơi buồn làm chi ?


songthu wrote on Feb 17, edited on Feb 21
Nhà báo Hữu Thọ .
Ông ơi buồn làm chi ?
Đảng ông ngày nay - Một bộ phận không nhỏ
Tham nhũng, tha hóa, biến chất,
Ung thư lờn hết thuốc
Đừng mong cứu chữa làm gì ...
Như thây ma chết chưa chôn
Đời còn u ám
Người dân còn đau thương, ôi máu xương và nước mắt trường kỳ
Xa xa Bản Giốc, ngắm suốt một dải biên cương
Ải xưa hùng vĩ Thiên hạ đệ nhất Nam quan
Ðứng bên này trông sang, sao nhớ tiếc
Sao xót xa đau quặn buồng tim ?
Nhớ mãi mãi muôn đời
Ngày mười bảy tháng hai năm xưa
Một ngàn chín trăm bảy chín
Tiếng súng nổ vang khắp nơi
Xé nát bầu trời biên giới
Quê hương ta vào trận chiến đấu mới
Giặc hung hăng tràn vào 6 tỉnh địa đầu
Máu dân tộc thấm đầy lòng đất mẹ
Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo hơn ba mươi sư ngùn ngụt lửa hung tàn
Giết sạch, đốt sạch, hãm hiếp, chặt chân, chặt tay,
Cả đàn bà có mang, trẻ em mới vài tháng tuổi
Rồi vứt xuống giếng ở Đồng Chúc, Hưng Đạo, Cao Bằng!
Ruộng khô, nhà cháy
Tàn sát thảm sầu
Dao búa tanh mùi máu
Kiệt cùng cuối ngõ đầu thôn
Dấu tích giếng căm thù còn đấy
Cha con chồng vợ một nhà
Bỗng chốc chia lìa đôi ngả
Thiệp cưới chờ người tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu?
Sao nỡ quên quá mau ?
"Bài học dạy cho lũ côn đồ"
Nay không cho dân viếng đài liệt sỹ
Trong khi ra rã tăng loa
16 chữ vàng, 4 tốt
”Nghĩa trang Vị Xuyên” ngày xưa,
Những tấm bia mộ của 1600 chiến sỹ
Nam thanh nữ tú
Xung phong hăng hái lên đường
Chống xâm lược bành trướng bắc phương
Thân gửi lại nơi chiến trường quạnh quẽ
Nay khói lạnh, nhang tàn
Hồn người xưa biết phiêu dạt nơi đâu?
Phía biển đông quê nhà
Ai cướp của ta Hoàng -Trường sa ?
Bao chiến sỹ hải quân Việt nam
Gục ngã dưới pháo đạn súng thù xối xả !
Lưỡi bò 9 đoạn la liếm
Biển của ta, trời của ta
Nay chúng ngang ngược bắn, giết, cấm
Đánh đập ngư dân nghèo
Chặn cướp tàu thuyền, hải sản
Huênh hoang đòi tiền chuộc mạng
Biết bao đời người dân ta xứ biển
Sinh sống bình yên
Nhưng nay còn đâu nửa ?
Cảnh trai tráng đua thuyền cùng mặt trời
Sáng sớm giong buồm tung hoành giữa biển khơi
Tiến xa bờ đánh bắt tìm luồng cá ...
Bây giờ thuyền neo đầy bến cũ
Chẳng phải vì xa bến mỏi trở về nằm
Bằng lệnh cấm phi pháp bất nhân
Lũ người vừa ăn cướp vừa la làng
Quan thì hèn với giặc, ác với dân
Lòng người ngao ngán
Ngư dân Việt rồi đi đâu, về đâu ?
Đảng chết lâm sàng từ lâu
Biết bao nhiêu tội ác ngập đầu
nay còn ngăn cấm dân biểu tình phản đối lũ cướp nước
Ông ơi! Ðừng cố chữa! Lòng dân đau
Đảng ơi! Ðừng tiếc nữa! Mặc dân sầu
Để dân bại hoài , bại mãi
Đất nước còn đâu ?
Cuộc đổi đời - đã bao người trăn trở đếm thương đau
Phận tù không tội quên hết cả ngày lẫn tháng
Phí hoài bao sức thanh xuân tươi sáng
Thay chân nhau bị tống hết vô tù
Vẫn không làm sao ngăn cản nổi chí căm thù
Bọn nội, ngoại xâm - bầy sâu đục thân Tổ Quốc
Ngày đêm ăn tàn, phá hại
Núi cũng lở mòn
Nợ công chồng chất
Niềm tin vào những thứ mơ hồ tan rã
Bởi làm sao sống trong dối trá suốt đời ???
Không cam chịu sống quỳ
Lớp anh trước, em sau
Lần lượt đứng lên
Chung ước mơ ngày vui lớn
Toàn dân thao thức sang trang đời
Vì nắng đã lên rồi
Trời mỗi ngày lại sáng
Chim én bay khắp trời
Hương hoa nhài nức nở
Hãy để gió cuốn phăng đi
Bao nhiêu nhục nhằn dâu bể
Bao nhiêu nước mắt
Bao nhiêu mồ hôi
Bao nhiêu bóng tối
Bao nhiêu nỗi đau đời
Đời sẽ thôi gian trá
Khi sự thật lên ngôi
Từ nay người biết yêu người
Người một nước tin nhau
Vững lòng , ngày mai sẽ khác
Những môi khô, lại thắm
Nét mặt cau, lại cười
Tương lai nước Việt rạng ngời
Mùa xuân dân tộc đời đời hoan ca



Việt Nam không thể bao giờ quên
Đày xéo dân ta hàng thế kỷ
Độc tài đc trị cố tình quên
Không lẻ ta đây cũng quên theo
Sử sách dân ta ta phải nhớ
Lưu truyền hậu thế mãi noi theo
Tiền nhân ta hằng bao chống giữ
Giặc Bắc phương lủ giặc hung tàn
Biển đảo nước ta giăc chiếm gi
Đảng ta lảnh đạo bán giang sơn
Tài nguyên khoáng sản đảng nhượng hết
Bắt ép dân ta phải cố quên
n ta nòi giống dòng tộc Việt
Quyết giữ trong tâm mãi không quên


KN



ĐÀN ÁP KHỦNG BỐ CON CÁI:


ĐÀN ÁP KHỦNG BỐ CON CÁI:
Đấy cũng mới chỉ là hai ví dụ, trong rất nhiều câu nói chúng ta đươc nghe hàng ngày nơi cửa miệng của các cha mẹ Việt Nam. Họ nói như một cái máy bất chấp lý lẽ, không hề kiểm chứng thực tế, nhưng khi con cái chỉ cho họ cái sai của họ. Họ không thèm lắng nghe con cái mà ngược lại họ tìm đủ mọi cách, mọi giá đàn áp và khủng bố con cái khi con cái họ thể hiện được giá trị tinh thần TRÍ TUỆ, giá trị NHÂN PHẨM, NHÂN QUYỀN BÌNH ĐẲNG.
Trong mỗi lần cha mẹ “giáo dục” con cái mình, họ không từ bỏ bất cứ ngôn từ thô bạo tục tĩu nào : “Đồ óc heo, Địt mẹ mày thằng con mất dậy,” .v.v đây không còn là mạt sát mà là miêt thịt và xúc phạm giá trị nhân phẩm của con cái.
Không còn hình thức đánh đập con cái nào tại Việt Nam không có, không còn món vũ khí hỏi cung nào mà cha mẹ Việt Nam không sử dụng: Roi tre, roi mây, roi đuôi cá đuối, roi giây điện,..ngày hôm nay nhân loại còn không cho phép con người dùng những biện pháp tra tấn như vậy với các tù binh chiến tranh. Đây là hành động đàn áp con người bằng bao lực và phi nhân tính.
Gian manh hơn nữa là họ dùng biện pháp phong tỏa kinh tế, bằng những hình thức: “ Mày không làm ý tao thì từ mai trở đi không nhận đồng nào của tao” đây là việc làm gi đây? Đây chính là chính sách bóp bao tử, bao vây kinh tế. Dùng áp lực kinh tế để người khác tuân thủ làm theo ý mình, đó là một việc làm phi giáo dục.
Nếu không thành công nữa thi cha mẹ thường dùng biện pháp cuối khủng bố tinh thần, dùng tình cảm làm áp lực con tin: “ Mày không nghe lời tao tao sẽ từ mày”. Về phương diện sinh vật học thì việc “từ con cai” là không thể, vì không cách nào cha mẹ có thể lây đi hoặc thay đổi DNA của chính mình hoặc của con cái. Về mặt con người không thể nói một tiếng “từ con cái” hoặc “ yêu con cái” thì là có tình cảm với con cái. Đây chính là hành động khung bố tinh thân với con cái. Mang tình cảm cha me ra làm áp lực cho con cái.
Ở hầu hết các nước “NGOẠI” đều ngăn cấm và “trừng trị” nếu chỉ làm những điều đó với bất kỳ một ai, vì đó là vi phạm nhân phẩm, nhưng với người Việt Nam chúng ta cho đế hôm nay thì đó là chuyện hàng ngày tại hầu hết các gia đình.
CON CÁI LÀ ĐỒ TRANG SỨC:
Suy nghĩ và hành xử như thế, vậy thì Họ, các bậc cha mẹ nghĩ con cái họ sẽ học những cái gì nơi những thứ “quốc tế” ấy đây? Trong khi ƯỚC VỌNG, chủ đích, và lối “huấn luyện” của Họ chỉ có thể biến con cái Họ thành những nhân cách chỉ biết cúi đầu tuân phục “người trên” với tinh thần bái vật, trọng của cải, sính quyền lực. Như vậy chúng ta cũng “đoán” được là Họ gửi con cái đi học chỉ để có thêm phương tiện “gọi dạ bảo vâng” cao cấp hơn, và kiếm tiền nhiều hơn. Ôi quả thật vĩ đại thay một “hệ tư tưởng sống” của một dân tộc!
Mẹ kiếp! Thế là thế nào? Tiên sư bố nhà chúng nó! Họ muốn biến con cái của họ thành VẬT TRANG TRÍ, HÌNH NỘM hay MÁY MÓC? Con cái chỉ được phép làm theo cái mà HỌ muốn. Nhưng trong chính thế hệ của họ, có những người lúc thời non trẻ, từng là những người coi chuyện “cha mẹ đặt đâu con ngôi đó” là cổ hủ,” sai trái áp chế! Chính họ có những kẻ từng “đả cựu nghinh tân”. Chính họ là những người mua cho con cái họ những bộ quần áo Tây. Chính họ là những người cho con cái họ học tại những trường QUỐC TẾ. Thế thì phải chăng trí não những người này đã bị biến dạng “teo lại” theo tuổi già? Hay là ngày xưa họ chỉ a dua mà không nhận thức, theo tính bày đàn của thời đại?
Họ chỉ muốn con cái thành ông bác sĩ, bà nha sĩ v.v theo ý nghĩ ước muốn đối trọng tăm tiếng, danh dự khen chê với hàng xóm, xã hội bên ngoài… Mà có bao giờ họ ngồi xuống lắng nghe nguyện vọng của những đứa con, những con người có ước vọng riêng tư, khả năng riêng biệt của chúng không? Hãy nhìn ánh mắt đầy kiêu hãnh của các ông bố bà mẹ khi đi bên cạnh và giới thiêu con mình: “Đây là B con tôi, cháu la Bác sĩ, dược sĩ…!” Không biết dùng từ nào diễn tả ánh mắt của họ lúc đó, nó giống như hai viên kim cương được chiếu đèn vào một đêm không trăng không sao LONG LANH RỰC SÁNG, tựa như hai bong đèn Pha của những chiếc Trực Thăng khi rọi bắt tội phạm.
Những nếu “buộc phải” đi cạnh một đứa con chỉ là công nhân, hay đang thất nghiệp thì thật bất hạnh cho họ khi có ai đó hỏi về con của họ, hai mắt của họ xup xuống, như những đứa trẻ khi ăn vụng bị bắt quả tang. Ánh mắt họ đầy xấu hổ và tội lỗi khi phải thú thật là con mình chỉ là công nhân!
Các bạn thử nghĩ coi chuyện gì sẽ xẩy ra nếu vì một lý do nào đó không còn những người làm việc hốt rác trên trái đất này, hay nói theo đúng qui cách kinh tế cung cầu là khi chúng ta có nhiều bác sĩ, nha sĩ, và thiếu công nhân hãng xưởng làm việc? Không chỉ là nỗi đe dọa sẽ sống chung với đống rác và vật giá leo thang khan hiếm, mà nghề hốt rác sẽ đắt giá, giá lao động công nhân sẽ cao và thu nhập bác sĩ , nha sĩ sẽ thấp xuống, cạnh tranh nhau chí chóe.. Và kết quả là chính một số trong những bác sĩ, nha sĩ này sẽ đổi nghề, thậm chí có thể thành những ông bà hốt rác, anh chị công nhân v.v Tất cả chỉ là nhu cầu và đáp ứng hỗ tương của xã hội kinh tế. Vì vây chúng ta thấy rõ trong xã hội không có nghề nào cao quý hơn nghề nào. Mỗi nghề nghiệp đều có giá trị riêng và giá trị cống hiến cho xã hội ngang nhau; và nhân phẩm con người, dù họ làm bất cứ công việc gì, cũng đều bình đằng. Nhưng chỉ có nhân cách hành xử, sự thể hiện đạo lý lương tâm chức nghiệp của mỗi cá nhân trong tương quan xã hội mới phân biệt xấu tốt, khinh trọng giữa con người. Hành xử bất lương phi nhân thì làm nghề gì , chức vụ gì cũng hạ cấp đáng khinh.
Vì vậy chúng ta không lạ gi khi nghe tin một thanh niên Việt Nam sống tại Mỹ giết chết mẹ mình vì lý do bị mẹ bắt đi học y khoa! Và chẳng hiếm hoi gì các thanh niên Việt Nam tự tử khi thi vào đại học ..vì không thể học được khi không đúng năng khiếu ý nguyện! Và cũng có không biết bao nhiêu người thành nghiệp, thành danh cống hiến cho xã hội nhân loại trong biết bao lãnh vực khác, mà không phải là bác sĩ nha sĩ, kỹ sư, như chúng ta vẫn đang chứng kiến khắp nơi trên quả đất này.
QUAN NIỆM QUYỀN LỰC CỦA CHA MẸ TỪ ĐÂU MÀ CÓ?
Con cái, nói cho cùng, là kết quả “trò chơi tiêu khiển tình dục” của cha mẹ. Đứa con không hề được hỏi ý kiến có muốn ra đời hay không? Thế mà ngày hôm nay trong tiềm thức của cha mẹ Việt Nam vẫn còn ý niệm:
“Công ơn sinh thành”và như vậy “Tao sinh ra may được thì giết mày được” ..
Xét xem, hầu hết các tín ngưỡng tôn giáo đều cấm hành động phá thai, giết người dưới mọi hình thức, hành động phá thai đã bị cấm huông chi giết đứa con đã ra đời!? Hay về luật pháp thì hầu hết các nước “tiên tiến” đều cấm phá thai sau tháng thứ 3 (vì sau tháng thứ 3 bào thai đã cảm nhận được thế giớ bên ngoài và đã đuợc coi là con người) ngoại trừ những trường hơp ngoại lệ sức khoẻ của người mẹ không cho phép, đứa bé có thể bị những khuyết tật khi ra đời v.v..Tại sao? Chính vì GIÁ TRỊ TUYỆT ĐỐI của CON NGƯỜI và GIÁ TRỊ này KHÔNG THUỘC QUYỀN SỠ HŨU của BỐ MẸ.
Chính vì vậy mà “Quyền Lực sở hũu đứa con” của cha mẹ trên thực tế rất giới hạn. Nhưng trách nhiệm của cha mẹ thì rất lớn, đó là nuôi dưỡng và tôn trong con cái như là một con người, bởi vì sao vậy? Vì ngay từ khi cất tiếng khóc đầu đời thì đứa con đã là một thành viên chính thức của gia đình và xã hội với đẩy đủ mọi giá trị nhân phẩm như mọi thành viên khác đã có mặt trước nó. Giá trị nhân phẩm này KHÔNG LÀ SẢN PHẨM hay SỞ HŨU của BỐ MẸ. Và GIÁ TRỊ NHÂN PHẨM này được tiềm thức thừa nhận qua thể hiện tình thương, sự vun vén, chăm sóc, giáo dục con cái, chứ không phải vì con cái là một món đồ vật hay một cục bột để cha mẹ nhào nặn theo y mình muốn. Vì thế, niềm tự hào, sự hãnh diện của cha mẹ chính là tạo được điều kiện cho con cái phát triển tòan bộ kỹ năng riêng tư của chúng, và quan trong hơn, cha mẹ cưu mang thiên chức chỉ cho con cái biết rõ giá trị làm người của chúng.Cho nên cha mẹ phải tôn trọng con cái như một chủ thể độc lập, phải bỏ đi cái quan niệm con cái thuộc quyền sở hữu của cha mẹ như một vật dụng.
Nhưng chính vì hiện nay trong tiềm thức của rất nhiều cha me Việt nam vẫn còn tư tưởng sai lầm là họ có quyền “ sinh - sát” con cái nên mới có những hiện tượng coi con cái như những vật sở hữu của họ để đánh bóng, hay làm đồ trang sức cho chính họ và họ có quyền tra tấn khủng bố con cái về thể xác lẫn tinh thần như họ muốn.
Posted by Kunieda Aoi Huynh

-Một xã hội lành mạnh đầy phẩm chất của một con người. sự độc tài tư tưởng ngay trong gia đình cần phải loại bỏ ngay cả trong vấn đề tư tưởng tôn giáo. Thì mới có một nền đa nguyên xã hội tự do dân chủ như phương Tây được, cũng chỉ mới có từ khoảng sau đệ 2 Thế chiến mới hưng thịnh và tiên tiến đúng ý nghĩa một con người trong cuộc sống của thời đại ngày nay. Còn độc tài gia đình là còn độc tài bè phái, còn độc tài tư tưởng là còn độc tài xã hội trị.

Dienstag, 21. Februar 2017

Gia Đình Việt Nam: Một Định Chế Không Tiến Hoá

Gia Đình Việt Nam:
Một Định Chế Không Tiến Hoá
Gia đình , với đa số người Viêt Nam, dù chung sống trong xã hội nào, gia đình vẫn tồn tại như đơn vị ở các xã hội súc vật hoặc còn bán khai, đó là chỉ tồn tại theo bản năng sinh tồn bái vật, và duy trì việc truyền giống mà thôi, ngoài ra KHÔNG CÓ NỖ LỰC TIẾN HÓA TRAU GIỒI, NUÔI DƯỠNG ĐẠO LÝ, NHÂN CÁCH, GIÁ TRỊ NHÂN BẢN cho CÁ NHÂN trong tương tác XÃ HỘI LOÀI NGƯỜI.
Nhưng trong hầu hết tất cả các xã hội muôn loài, và ở mọi nền văn hóa, định chế gia đình luôn đóng một vai trò quan trong. Hơn thế nữa có rất nhiều nhà xã hội học cho rằng gia đình là khởi điểm đầu tiên của sự hình thành xã hội chúng ta ngày hôm nay. Qua sự chung sống, sinh hoạt của các thành viện trong gia đình đã biến loài người thành động vật cao cấp. Ở đời sống thú vật, gia đình chỉ mang ý nghịa BẢN NĂNG sinh tồn và BẢN NĂNG bảo vệ sự truyền giống.
Gia đình của xã hội LOÀI NGƯỜI có những giá trị cao hơn nữa, đó là truyền lại, nâng cao cho thế hệ đi sau những khả năng đặc biệt như ngôn ngữ, tư tưởng, và trên hết là những giá trị sống do chính CON NGƯỜI TỰ ĐẶT RA, không phải để chỉ sinh tồn theo lý tính vật thể sinh động vật, mà chính là sự TỒN TẠI TINH THẦN của NỀN NHÂN BẢN.
Chính những điều này khẳng định sự độc nhất vô nhị của LOÀI NGƯỜI so với các sinh vật khác đang hiện hữu trên trái đất, và giá trị quan trong này được NUÔI DƯỠNGTHĂNG TIẾN hay bị TRÌ TRỆ HỦY HOẠI phần lờn đều nằm ở trách nhiệm gia đình trong xã hội loài người. Vì ai trong chung ta cũng biết “ Gia đình là định chế căn bản của xã hội”, vì GIA ĐÌNH là nơi con người được SINH RA, NƯÔI DƯỠNG về cả THỂ XÁC lẫn TÂM HỒN, trước khi hoàn toàn bước vào sinh hoạt độc lập để tác động chung trong XÃ HỘI rộng mở ; và loài người đã trân trọng định chế này qua những lễ nghi cưới hỏi theo từng văn hóa.
Xã hội Việt Nam ngay hôm nay, dù đã hội nhập, đời sống vật chất đã thay đổi cập nhật, nhưng vẫn trì trệ lạc hậu, chậm tiến, hủ lậu và với không biết bao nhiêu tệ nạn.. Một phần rất lớn cũng do cách HÀNH XỬ TƯƠNG QUAN giữa cha mẹ con cái trong gia đình, và nhất là việc giáo dục con cái của hầu hết cha me Việt Nam với biết bao nhiêu SAI TRÁI LẠC HẬU, do chính sự hiểu biết SAI TRÁI LẠC HẬU của bậc cha mẹ được truyền từ nhiều thế hệ qua, nhưng vẫn chưa hề được điều chỉnh rộng lớn. Nếu có những nỗ lực khai phá như Tự Lực Văn Đoàn đều bị thế lực chính trị quyền lực tìm đủ cách trấn áp triệt tiêu, vì chính những sai trái lạc hậu của định chế gia đình lại là lợi điểm, nền tảng vững chắc của quyền lực chính trị đôc tài. Do đó nền chính trị độc tài phi nhân vẫn thường nuôi dưỡng sủ dụng những sai trái lạc hậu này để tồn tại.. Và ở Việt Nam dĩ nhiên không là ngoại lệ.
Hiện Tượng ngày hôm nay ở xã hội đât nước Viêt Nam, có không biết bao nhiêu trường mẫu giáo quốc tế , trường tiểu học Việt Úc , Trường Trung Học Việt Pháp, Đại Học Quốc tế, còn thiếu cái trường nào mà chưa có “Quốc tế” không vẩy? Còn thiếu vật dụng nào trong gia đình và hàng ngày của chúng ta không là hàng NGOẠI không? Dẫu cũng có phần do mặc cảm tự ti thấp kém , nhưng cũng đúng thôi! Sính ngoại, vọng ngoại không nhất thiết là xấu là tai hại… vì sự thật mình tệ hại không bằng người, và phẩm chất của hàng ngoại cao và thật sự giá trị của những sản phẩm nội điạ chưa thỏa đáng được nhu câu của người tiêu dùng. Vì chúng ta đã quen thói làm cho qua chuyện, làm cho có. Chỉ biết cái lợi trước mắt thôi, làm ăn theo kiểu thời vụ. Nhưng ở đây tôi không muốn đi sâu đề tài này vì sẽ vượt quá giớ hạn mà người Việt Nam chúng ta muốn đọc.
Thế nhưng tại sao trong não trạng của những con người BIẾT và HIỂU để yêu chuộng cái hay, cái tốt cùa nước NGOÀI như trên lại có những suy nghĩ nhận định quái đản ngược ngạo thể hiện ra hàng ngày tại Việt Nam như thế này đây :
- “Bố ơi, bố làm vây là không đưọc, vì nếu bỏ đi cái cột bê-tông này là sai hết kết-cấu của bản vẽ và có thể làm nhà xập!”
- “Nhà tao, tao xây gì bỏ gì là quyền tao, mày biết gì mà nói; Trứng mà đòi khôn hơn rân”! ”
Dù “quả trứng” là kiến trúc sư đã ra trường gần 10 năm kinh nghiệm , và đang làm việc cho một công ty xây dựng NƯỚC NGOÀI - và “Rận” thì ngoài tuổi già , còn học vấn chuyên môn chưa hết lớp 10!
- “Con biết không, thằng em con nó mê con bé A quá. Mẹ đọc được trong thư của con A viết cho em con là; “….sinh nhật em, món quà em mong không phải là nước hoa; túi sách, nữ trang như anh đã đoán. Em chỉ mong hôm đó có anh và được anh hôn em..” Mày nghĩ coi! con gái con đứa mà như vậy, đúng là mất nết!”
- “Mẹ, tại sao mẹ lại đọc thư RIÊNG TƯ của bạn gái nó gửi cho nó?”
- “Tao là mẹ nó, tao có trách nhiệm theo dõi và bảo vệ nó!”
ĐỨA CON “nhỏ dại” kia năm nay mới “chưa đầy 22 tuổi”, đang được mẹ cho đi học tại trường đại học QUỐC TẾ. Và Mẹ có quan hệ yêu đương trai gái, lấy chồng và CÓ MANG, sinh con làm Mẹ ở cái tuổi đời “còn dại dột cần được bảo vệ,” mà theo quán lệ của NƯỚC NGOÀI đã thành người lớn đôc lập tự chủ “năm 21” tuổi đời, tuổi được ứng cử tham chính làm dân biều, bộ trưởng v.v
Ôi thôi! Một dân tộc biết cái HAY , cái TỐT, cái PHẨM CHẤT của NƯỚC NGOÀI, để yêu chuộng hàng ngoại đến thành căn bệnh SÍNH NGOẠI, thế mà về mặt tư tưởng suy nghĩ thì mục nát cổ hủ. không có chỗ cho một mặt hàng GIÀ TRỊ NHÂN PHẨM, TƯ TƯỞNG BÌNH ĐẴNG của NƯỚC NGOÀI nào chen lọt, chẳng hạn là tinh thần TÔN TRỌNG NHÂN PHẨM BÌNH ĐẲNG, tôn trọng TÍNH RIÊNG TƯ … ít nhất là chen lọt vào giữa quan hệ CHA MẸ và CON CÁI.
Posted by Kunieda Aoi Huynh


Bildergebnis für Bilder von Kinder




Mơ thấy bác tổng nhà ta
Đăng đàn khai báo hội nghị vừa qua
Giấc mơ hiện thực kéo dài
Một trăm năm nữa phải còn vượt qua
Đời người sống được bao lâu
Một trăm năm nữa có còn Việt Nam...?
KN

IMAGES-BLOGGER-OPENSOCIAL.GOOGLEUSERCONTENT.COM
IMAGES-BLOGGER-OPENSOCIAL.GOOGLEUSERCONTENT.COM

Samstag, 18. Februar 2017

Tiếng nói dân ta...

Tiếng nói dân ta...



Vó ngưạ ra đi để dấu ấn...
Chân dê bước tới cùng xông pha...
Tự do ngôn luận quyền chính đáng...
Dân chủ đa nguyên quyền chính kiến...
Bài trừ tham nhũng quyền người dân...
Khỉ tới gọi Gà vang tiếng gọi...
Hiệp thông dân chủ lẫn đa nguyên...
Cùng nhau xây dựng đất nước Việt...
Độc tài độc đảng hết lộng hành...
Khỉ đi cầu cạnh nước Trung hoa
Ban phước ban thọ rước đọa đày
Mười lăm văn kiện bàn giao hết
Giữ vững mối tình hữu Việt Trung
Quân đội quốc phòng đồng tương ứng
Công an thống trị diệt dân ta
Kinh tế đô hộ còn nước Nam...?
Xóa đi tất cả nghĩa đồng bào
Anh hùng giữ nước chống Trung Hoa
Hoàng Trường hãi đảo người giữ nước
Chống họa xâm lăng của Hán triều
Năm nay gà về theo tiếng gọi...
Bao năm qua trong giấc ngủ dài
Mầm mống dân tộc ta quên hết
Độc tài độc đảng dạy ta quên
Thiên đường chủ nghĩa đồng tư tưởng...
Bác Hồ ta đây chính bác Mao
Việt Trung một nhà không biên giới
Dân Việt ta mãi chẳng còn gì...

KN

Tổ quốc con chung giống nòi Việt...
Danh dự tổ quốc không thể quên...
Trách nhiệm con người ta phải nói...
Rạng rở non sông gấm sử vàng...



KN

Bildergebnis für hình ảnh cuộc chiến tranh biên giới 1979

Dienstag, 14. Februar 2017

Miền đất hứa và những kẻ vô ơn




Miền đất hứa và những kẻ vô ơn

Cập nhật lúc 19-01-2013 21:22:51 (GMT+1)
Hội CCB Leipzig. Ảnh: nguoiviet.de.


Thưa các anh chị! Với góc nhìn của một độc giả cũng là cựu quân nhân, tôi vui mừng khi nhìn thấy các các anh chị, những người của một thời, nói theo cách của ông Lê Lựu là ''thời xa vắng''.

Miền đất hứa và những kẻ vô ơn
Thưa các anh chị! Với góc nhìn của một độc giả cũng là cựu quân nhân, tôi vui mừng khi nhìn thấy các các anh chị, những người của một thời, nói theo cách của ông Lê Lựu là ''thời xa vắng''.
Tôi thật sự vui mừng khi nhìn thấy các anh chị vẫn còn đủ sức khỏe để ngồi lại với nhau để đàn ca sáo nhị, để ôn cũ nói mới, để tự sướng, để xưng tụng cái hào quang một thời mà tôi tin, trong thâm tâm các anh chị không một ai mong muốn. Phe nào thắng cũng vậy, chỉ có nhân dân là kẻ thua thiệt. Nhưng lịch sử đã lùi xa và không thể làm lại nên dù sao tôi cũng chúc mừng các cựu đã có một sức khỏe vô địch chẳng khác gì người lính năm xưa.
Thực ra chuyện cũng chẳng có gì để nói nếu các anh chị có hứng để tổ chức xưng tụng rình rang trên quê hương của các anh chị. Đằng này, ngay trên cái đất nước tự do của những người con Đức, những người đã đổ bao xương máu để đập vỡ bức tường ô nhục Berlin, mang lại hạnh phúc cho dân tộc Đức và cả gia đình con cái các anh chị. Như vậy thì khác nào các anh chị tổ chức đám giỗ ... trong nhà người đã cưu mang các anh chị bằng những 'bài ca' xưng tụng có phần hơi lố, cũng có thể nói là trơ trẽn pha với giai điệu ''híp hốp thời xa vắng'' bởi những hình nhân mang cả cây quân phục nặng trĩu huân huy chương, tóc pha sương quay cuồng. Nước chủ nhà nhân hậu không cấm các anh chị kỉ niệm này nọ như họ đang tích cực đấu tranh với bóng ma của chủ nghĩa phát xít, nhưng xét về tình, nhất là truyền thống ''ăn quả nhớ kẻ trồng cây'' của dân tộc việt thấm đẫm qua lời ru của mẹ từ khi các anh chị còn thơ bé thì quả không còn gì để nói khác, các anh chị là những kẻ vô ơn.
Tục ngữ Việt có câu ''nó lú nhú có chú nó khôn''. Đằng này, chú nó đại diện ngoại giao của một quốc gia, sống bằng tiền thuế của dân mang tiếng có ăn, có học mà cũng 'lú' hết cỡ thợ mộc cùng các anh chị tuổi già, trí nhớ có phần tù mù, ca vang hết lời bài ca xưng tụng. Khi con cháu các anh chị trưởng thành đang hòa mình vào hơi thở của nước Đức và cả cái ông phó thủ tướng Đức gốc Việt cũng không dám nhận mình là gốc Việt đâu. Khổ! Dân tộc Việt đi đâu cũng khổ! Nhục như con trùng trục.
Ăn mừng hoành tráng. ảnh: nguoiviet.de.
Ăn mừng hoành tráng. ảnh: nguoiviet.de.
Thưa các anh chị! Đã từng là một quân nhân, xin phép các anh chị cho tôi nói thẳng nói thật, không giống như ông tổng Trọng, tổng bí thư ĐCSVN hay sính dùng đại từ nhân xưng kiểu ông X, bà Y, nó bí hiểm lắm. Thôi thì, bằng những câu hỏi ngỏ hoặc những mệnh đề không nhất thiết các anh chị cần phải chứng minh nếu các anh chị không thực sự muốn, tôi mạnh dạn đưa ra để mọi người khác, cùng các anh chị cựu binh suy ngẫm.
Bức tường ô nhục của chế độ cộng sản bị hạ bệ
Các anh chị nghĩ sao về sự có mặt của của các anh chị khi đến miền đất hứa Đức từ những năm 1980 của thế kỉ trước? Các anh chị có hiểu theo cơ chế (xin- cho) tức là đảng và nhà nước đã ban cho anh chị như một phần thưởng, đền bù những vất vả mất mát sau khi các anh chị ra khỏi cuộc chiến hay không? Hay có một cách giải thích khác có vẻ 'nghịch nhĩ '  nhưng hoàn toàn là sự thật như phần 1 bài viết.
Bức tường ô nhục chia cắt Berlin cùng với chế độ cộng sản toàn trị, không tưởng bị nhân dân Đức đạp đổ vào năm 1989 để dân tộc Đức thống nhất được sống trong xã hội tư bản giãy chết mà dân chủ không bằng 1 phần mười dân chủ Việt Nam như lời bà phó chủ tịt Nguyễn Thị Doan rêu rao, thực chất đã không hèn hạ cắt lương hưu như ông đại tá Thanh, cái loa rè của đảng gần đây lớn tiếng ''dọa'' các trí thức ăn lương khi khuyến khích họ cố giữ đảng, cố giữ cái chế độ hèn với giặc, ác với dân. Người Đức đã hào phóng đền bù cho các anh chị khi trở về cố quốc 3000 Denmark để hỗ trợ cuộc sống. Nên nhớ số tiền thời điểm đó rất lớn, tương đương 80 năm lương của một công nhân lành nghề khi đi làm trong hệ thống nhà máy, xí nghiệp Việt Nam khi đó. Điều này thì các anh chị không thể quên.
Rất nhiều người trong số các anh chị chấp nhận 'đánh bạc' với số phận, bằng mọi cách để ở lại nước Đức, chấp nhận kể cả những phương sách khả dĩ khổ nhất, hèn nhất, nhục nhất miễn là không bị tống về nơi anh chị từ đó ra đi. Các trại ty nạn, các tổ chức nhân đạo, phi chính phủ, các tổ chức tôn giáo, các cá nhân, gia đình Đức đã hết lòng cưu mang, đùm bọc và thậm chí họ còn đấu tranh mạnh mẽ kêu gọi dư luận quốc tế ủng hộ các anh chị vô tư không trục lợi. Trong suốt thời kì đen tối đó, Đại sứ quán CHXHCN Việt Nam thì im lặng khó hiểu, bỏ mặc, đem con bỏ chợ và việc duy nhất mà họ có thể làm là tích cực hợp tác với sở di trú để thanh lọc sao cho nhanh, để tống khứ các anh chị về nước cho rảnh nợ và những chuyến bay tràn ngập tiếng oán hờn tuyệt vọng có sự hộ tống của cảnh sát, cơ quan lãnh sự là một vết nhơ lịch sử mà các anh chị không thể nào quên.
Nước Đức dân chủ và tự do mặc dù phải cùng một lúc phải giải quyết bao vấn đề khi thống nhất đất nước, nhưng truyền thống coi trọng quyền con người đã không bỏ mặc mà nhanh chóng ra những chính sách nhân đạo để các anh chị tái hòa nhập cộng đồng, ổn định cuộc sống. Một trang sử đã sang trang, cộng đồng Việt hăm hở bước vào cuộc đời mới trong vòng tay dang rộng của nước Đức và nhanh chóng phát triển trở thành cộng đồng mạnh. Họ được quyền đón thân nhân hợp thức hóa gia đình, rất nhiều hoàn cảnh chia cắt phân ly được tái đoàn tụ trong niềm vui khôn xiết. Thiết nghĩ, các anh chị không phải là những hạng người vô ơn, và rằng có một bộ phận não trạng có bị tẩy trắng bởi chính sách nô dịch từ trong nước thì phàm sinh ra làm con người công chính, làm người tử tế sẽ không vì một cái danh hão nào đó, tự bỏ phần ''phần người, giữ lại chữ con'' mà có hành động làm tổn thương đất nước đã cưu mang mình, xúc phạm đến biết bao đồng hương của mình, bạn bè con cháu mình đã và đang dầy công vun đắp, xây dựng, làm đẹp quê hương, đất nước thứ hai của mình.
Những hội đoàn được Đức cưu mang. Ảnh: nguoiviet.de.
Những hội đoàn được Đức cưu mang. Ảnh: nguoiviet.de.
Bi kịch của XHCN đã đến lúc lộ mặt
Thưa các anh chị! Thế kỉ 21 đã cùng với sự phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin đã làm thay đổi bộ mặt thế giới. Ước mơ cháy bỏng của nhân loại về một thế giới phẳng đã thành hiện thực. Ngày tàn của những chế độ toàn trị, ngu dân dễ trị, bưng bít thông tin, gian lận, nói láo, đổi trắng thay đen, thay đổi khái niệm …  đã bị dồn vào chân tường, đến hồi cáo chung. Không một ai, kể cả những người vô tư nhất, cả các anh chị không thể không biết tin tức nóng bỏng hàng ngày thông qua Internet và các phương tiện thông tin hiện đại khác dù khoảng cách địa lý có xa hàng vạn dặm thì cũng chỉ là một cú nháy chuột.
Đất nước Việt Nam yêu dấu của chúng ta đang bước vào một bi kịch tồi tệ nhất trong lịch sử. Đảng cộng sản Việt Nam đã bộc lộ bản chất và lỗi hệ thống không thể sửa chữa. Những hạ tầng cơ sở mới khang trang hoàn toàn sử dụng vốn vay và đây là miếng mồi béo bở cho các tập đoàn lợi ích trong đảng sà sẻo đến 70 phần trăm. Tài nguyên bị khai thác nói trắng ra là bị tận thu đến kiệt quệ. Điều 4 hiến pháp khư khư giữ độc tôn độc quyền toàn trị của đảng cùng với chính sách mơ hồ ''đất đai thuộc sở hữu toàn dân'' là đòn đánh trực diện vào quyền lợi của hơn 90 triệu dân. Tầng lớp nông dân, người đã giúp đảng cướp được chính quyền, là tầng lớp mà chế độ nào cũng ''bán mặt cho đất, bán lưng cho trời'' trải qua hàng ngàn đời sinh sống trên chính ruộng vườn của họ bỗng một hôm bị đuổi ra ngoài đường nhường chỗ cho cái gọi là đô thị hóa. Kêu khóc ư??? Đó là ý đảng. Chống lại ư? Công an, bộ đội, bạo lực của đảng sẽ dạy cho nhân dân bài học về chuyên chính ngay. Vụ anh Đoàn Văn Vươn ở Tiên Lãng Hải phòng, cũng là cựu chiến binh một thời đổ xương đổ máu vì đất nước, để bảo vệ tài sản hợ pháp của mình đã cùng đường buộc phải cầm súng đạn hoa cải chống lại những người nhân danh đồng chí của mình thực chất là bọn hồng vệ binh khoác áo đảng, dùng bạo lực của đảng trấn áp không thương tiếc. Vụ việc vỡ lở, chính ông X ông thủ tướng đương nhiệm đã tương kế tựu kế giả đò nhận 'sai' để lấy lòng dân và sau đó bỏ lửng. Rốt cuộc vài con tép nhận trách nhiệm khiển trách, còn người được minh oan ư? Hãy yên chí '' gặm một mối căm hờn trong cũi sắt'' dài dài vì tội giết người, chống người thi hành công vụ, tuy đã công nhận cưỡng chế sai.
Sẽ không đủ thời lượng dù chỉ là sơ lược để điểm những bi kịch thời đại mà một quốc gia tự nhận là thiên đường XHCN đã bộc lộ một cách công khai, hèn với giặc, ác với dân, khi bỏ tù hàng trăm người dám thể hiện quan điểm khác với quan điểm nhà nước. Đàn áp dã man người biểu tình chống Trung Quốc xâm lược từ đất liền tới biển đảo chỉ với tội yêu nước. Hàng loạt những tư bản đỏ thẳng tay vơ vét tài sản, sống phè phỡn trên lưng người dân khốn khổ. Tệ nạn mua bán chức quyền biến xã hội thành phiên chợ đen khổng lồ tất tần tật từ cái chức thấp nhất đến cao nhất. Kể cả các công chức ngoại giao, ăn lương bằng thuế của dân, đem chuông đi đấm nước người cũng không nằm ngoài vòng quay ô nhục. Tôi sẽ không liệt kê thêm nữa và xin dành thời lượng trong một bài viết khác, chỉ nhấn mạnh một bi kịch hãi hùng khi 3000 công an cảnh sát đặc nhiệm súng ống tận răng kết hợp với côn đồ đàn áp dã man chỉ vài trăm nông dân khốn khổ, không một tấc sắt  trong tay, không có khả năng tự vệ để đuổi họ ra khỏi chính ruộng đồng của họ giành đất cho những tập đoàn lợi ích. Đó là Văn Giang Hưng Yên, đêm lửa khói ngút trời. Những thước phim oan nghiệt khi được công chiếu như một bản án chế độ tàn bạo còn hơn cả thời đế quốc, phong kiến cộng lại, và tôi tin rằng bên trời Âu, có không ít anh chị em có người thân của mình trong là nạn nhân trong cuộc cưỡng chế tàn bạo đó.
Cả dân tộc vẫn oằn mình trong độc lập
Trở lại vấn đề anh chị em hội CCBQĐND Việt Nam tại CHLB Đức cùng với những thước phim, bức ảnh hoành tráng xưng tụng, có mặt đại diện của sứ quán, đại diện các đoàn thể mang danh cộng đồng khác trong cái gọi là lễ kỉ niệm ... đã được đăng tải trên báo chí thông tin đại chúng sẽ mãi mãi là sự hổ thẹn khi cùng một lúc phạm 3 lỗi: Vô ơn với chính người đã cưu mang mình, đó là nước Đức, quay lưng đối diện với đồng bào ruột thịt của mình, cội nguồn của mình, đó là thất tâm. Cuối cùng các anh chị đã vô tình hay cố ý xúc phạm rất nhiều bà con cô bác, những cựu chiến binh có lương tâm, những thế hệ con cháu được hưởng sự cưu mang vô bờ bến của một Châu Âu tự do. Tất cả chỉ vì cái danh hão không hơn không kém. Sẽ không có bất cứ tòa án nào phán xét các anh chị. Luật cũng không cấm. Chỉ có tòa án lương tâm của chính các anh chị sẽ đối diện các anh chị.
Chào cờ. Ảnh: nguoiviet.de.
Chào cờ. Ảnh: nguoiviet.de.
Năm hết tết đến. Dù sao tôi cũng chúc các anh chị có sức khỏe dồi dào. Cuộc sống là hữu hạn, chỉ có tình yêu và công lý là vĩnh cửu. Nói theo cách của thiên tài cố nhạc sỹ Trịnh Công Sơn ''Chúng ta lấy cái vô hạn để cứu lấy cái hữu hạn trên cây thập giá đời'' mãi mãi còn nguyên ý nghĩa nhân văn. ''Quay đầu là bờ giác'' đây là lời dạy của đức phật.
Thật may trong đêm dài tăm tối, vẫn phục sẵn một mặt trời! Cả nước nức lòng khi mới đây, khi nữ nghệ sỹ điện ảnh Kim Chi, người có nhiều vai diễn nổi tiếng, người có bố là liệt sỹ chống pháp, đã có mười năm tham gia quân đội nhân đân Việt Nam, đã tình nguyện tham gia biểu diễn và chiến đấu trong suốt thời kì gian khổ ác liệt trước 1975, là một nghệ sĩ có nhiều cống hiến, phần thưởng ghi nhận sự cống hiến cả đời của mình luôn là điều bất kể nghệ sỹ nào cũng mong muốn. Tuy vậy Bà đã thẳng thắn từ chối thể hiện trách nhiệm của một công dân, chữ sỹ của một nghệ sỹ trước bị kịch của dân tộc, của đất nước:
“Tôi không muốn trong nhà tôi có chữ kí của một kẻ đang làm nghèo đất nước, làm khổ nhân dân. với tôi, đó là điều rất tổn thương vì cảm giác mình bị xúc phạm.“ Hành động và phát ngôn thẳng thắn của Nghệ sỹ Kim Chi, như tiếng sét giữa trời quang không chỉ riêng với đương kim thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng mà còn cảnh báo cả hệ thống chế độ, đã trở thành sự kiện gây chấn động thức tỉnh hàng triệu con tim yêu chuộng tự do, công lý không chỉ Việt Nam mà trên phạm vi toàn thế giới.
Là những cựu chiến binh, những người đã đổ máu xương vì tự do và danh dự của dân tộc, tổ quốc tôi tin rằng chúng ta không đổ máu chỉ để nhìn thấy một đất nước sau 68 năm kể từ ngày giành độc lập, toàn dân tộc tiếp tục oằn mình trong cơn bi kịch. Không có bi kịch nào lớn hơn bi kịch cả một dân tộc tiếp tục phải u mê sống trong thời đại “hèn với giặc, ác với dân“ như những gì nhân dân Việt Nam đang tiếp tục phải phải chịu đựng.
Buồn ơi! Trong đêm dài tăm tối, vẫn còn có không ít '' con rồng cháu tiên'' của chúng ta điềm nhiên xưng tụng, vui vẻ trên đau khổ bất hạnh của đồng đồng bào mình.
Bạn đọc Lê Trần Việt – vietinfo.eu
http://nguoiviet.eu/cd-tai-duc/mien-d%E1%BA%A5t-hua-va-nhung-ke-vo-on.html

Khi còn những kẻ vô ơn
Vui chơi trên những xác người dân ta
Ngoảnh mặt cúi đầu làm ngơ
Qua cầu rút ván mặc tình nước ta
Giúp cho độc đảng độc quyền
Độc tài đàn áp trên đầu nhân dân
Khi còn những kẻ vong ân
Hưởng niềm lạc thú xứ người tự do
Giúp cho chủ nghĩa bá quyền
Nước ta ắt mất cho người Trung Hoa


KN








Montag, 13. Februar 2017

Người Trí thức Hành động và Dẫn đường


Câu hỏi 1-5
(Người Trí thức Hành động và Dẫn đường)


Thi Vũ Võ Văn Ái | Quê Mẹ



Thời thơ ấu, Kháng chiến, và Phật giáo


1. Lê Thị Huệ : Chào nhà thơ Thi Vũ Võ Văn Ái, câu hỏi đầu tiên tôi muốn hỏi, là ông chọn làm một nhà tranh đấu hay hoàn cảnh đã đưa đẩy ông trở thành một nhà đấu tranh cho nhân quyền và Phật Giáo Việt Nam ?

Võ Văn Ái : Tranh đấu là phản ứng, không phải chọn lựa. Hai nghìn năm lịch sử con người Việt là chuỗi phản ứng trước nạn xâm lăng nước ngoài, trước những bất công, đàn áp đến từ vua chúa và các chế độ bất nhân bên trong. Tức ngoại xâm và nội xâm. Người ta bảo con trùn còn phải oằn khi bị giày xéo, thì con người làm gì khi bản thân, gia đình, xóm giềng bị bức hiếp ?

Tôi sinh ra dưới thời Pháp thuộc. Thân phụ tôi làm cho nhà giây thép Pháp, nhưng tinh thần ông chống Pháp gây ảnh hưởng sang tôi. Thế hệ chúng tôi không có thời thơ ấu vì mới chào đời đã tiếp cận nô lệ, loạn lạc, chiến tranh. Vừa mới biết nhìn đời đã gặp đệ nhị thế chiến, chiến xa Pháp tập trận, quân đội Nhật kéo vào Đông Dương, máy bay B29 Mỹ ném bom...

Hình ảnh đánh động tâm tư tôi thời bé đầu thập niên 40 là chiến xa Pháp tập trận ủi vào cây vải nhà tôi ở Bến Ngự, Huế, tước một mảng vỏ bày ra thớ thịt cây vàng thẩm như máu ối. Tôi đã đau xót như cây.

Thời đó mẹ tôi thui thủi trong căn phòng hiu quạnh lúc cha tôi đi làm xa trên biên giới Việt Hoa. Mỗi năm một bận ông về thăm một hai ngày. Thỉnh thoảng bà ngâm thơ khe khẽ, tôi chỉ nhớ hai câu “Chồng hỡi chồng, con hỡi con… cùng nhau xa cách mấy năm tròn…” Câu thơ đeo đuổi tôi rất lâu. Phải chăng đó là hồn thơ mẹ gieo vào lòng, khiến tôi chỉ muốn là người làm thơ trong đời này ? Lớn lên mới biết đó là thơ Thượng Tân Thị làm thay vợ vua Thành Thái khi chồng bị Tây đày sang Madagascar.

Tôi sinh ra ở Pha Long, trên dãy Hoàng Liên Sơn vùng biên giới Việt Hoa, về Hà Nội mấy năm đầu rồi theo cha mẹ vào Saigon, Nhatrang, Bình Định. Năm 5 tuổi mới về Huế ở Bến Ngự. Những bài học khai tâm là chữ Hán do một đệ tử cụ Phan Bội Châu dạy. Rất sớm tôi đọc Cụ Phan Bội Châu. Tiếng gọi giống nòi qua văn thơ Cụ Phan thâm nhập tôi những năm 9, 10 tuổi. Tất cả tiền mẹ cho ăn quà tôi dành mua các sách Cụ Phan tại tiệm sách ông bà Đào Duy Anh ở Huế. Thưở ấy, khi đưa đẩy tao nôi ru em thay mẹ, tôi hát thơ cụ Phan - Á Tế Á, Sống, Bài ca chúc Tết thanh niên, Ái quốc ca, Ai cáo Nam Kỳ…

Hết làm cho Pháp, thân phụ tôi mở căn hàng xén ở Huế. Giữa thập niên 40, tôi chứng kiến hai kỷ niệm khắc sâu. Lần đầu là tên Tàu phù (quân Tàu vàng sang giải giới quân Nhật), lần sau là tên lính Pháp. Cả hai lần bọn chúng cướp giật hàng khi ngã giá. Chúng đánh cha tôi khi ông phản ứng. Còn quá nhỏ để làm được gì, tôi uất hận, đau đớn và tự nhủ lòng phải làm gì để bọn ngoại nhân không còn quyền đánh đập dân Việt  (1).

Sau đó tôi đi theo kháng chiến. Năm 13 tuổi bị bắt và vào tù. Nhờ thân phụ tôi có người bạn học thưở nhỏ làm Đại uý trong quân đội Pháp, nên ông được phép vào nhà lao thăm tôi. Nhân dịp tôi xin cha tôi mang vào những bộ kinh Phật. Tôi đọc hết các bộ kinh Phật trọng yếu vào thời gian bé bỏng ấy, như các bộ kinh Pháp Hoa (Saddharma-pun?d?arikasûtra), Kim Cang (Vajracchedikâ-prajñâpâramitâsûtra), vân vân… Tôi chấn động với hình ảnh Bồ tát Địa Tạng và Bồ tát Quán Thế Âm.

Kỷ niệm chưa phai trong tôi thời ấy khi chứng kiến ở phòng tra tấn. Tên chủ sự ngồi bàn giữa quan sát ba thuộc cấp hỏi cung. Hắn bắt một văn công ngồi cạnh hát những bài ca kháng chiến, trong khi ba tên kia vừa hỏi cung vừa tra tấn tù nhân. Trong số này có một chị nữ và một mẹ già. Tinh thần kháng chiến tự dưng bốc cao trong tôi. Làm sao quên những tiếng thét, tiếng khóc trộn lẫn vào giọng ca khi bi hùng, khi tình tự của anh văn công bị bắt. Tôi không hiểu vì sao anh có thể điềm nhiên hát, tên chủ sự có thể điềm nhiên nghe giữa tiếng khóc gào, lăn lộn ? Một cảnh trạng kỳ lạ mà não nùng. Tôi lập tâm phải cứu những người tù ra khỏi ngục.

Từ đó trở về sau, cuộc đời tôi đi vào đấu tranh như con cá giữa dòng nước.

Tham dự sinh hoạt quốc tế lần đầu tại Đại hội Thanh niên Thế giới (Die I. Internationale Jugendtagung der Fraternitas) ở Bodensee bên Đức năm 1958 (xem trả lời câu hỏi số 2)
Tham dự sinh hoạt quốc tế lần đầu tại Đại hội Thanh niên Thế giới (Die I. Internationale Jugendtagung der Fraternitas) ở Bodensee bên Đức năm 1958 (xem trả lời câu hỏi số 2)

Bồ tát là người giác ngộ, đạt quả vị Phật, nhưng tự ý cư trú cõi trần gian bi lụy, phát nguyện sống đạo giữa đời thường để cứu độ con người. Bồ tát Địa Tạng phát nguyện bao lâu còn một chúng sinh trong địa ngục, ngài thề chưa thành Phật. Địa ngục đâu phải ở cõi âm ? Những Gulag nơi hoang mạc Siberia, trại Lao cải ở Trung quốc, trại Cải tạo ở Việt Nam, trại Tập trung thời Đức quốc xã… không là địa ngục ư ? Chiến tranh không là địa ngục ư ?

Địa ngục tiếng Phạn là Nakura, có nghĩa là nơi chịu khổ, loài chịu khổ. Địa ngục Phật giáo khác địa ngục trần gian ở chỗ do thân thể nhỏ yếu, tinh thần lung lạc lúc phải chịu đựng quả báo do mình gây ra nhân ác mà khổ. Như ta bị cắt tay chảy máu mà đau. Thập điện Diêm phương ta thấy sau hậu liêu các chùa chỉ là lời cảnh báo những ai ngoan cố, gây nhân ác, làm hại người để họ biết sợ mà hối cải.

Trái lại, địa ngục trần gian có người cai quản - quản giáo, có người giam nhốt, có người hành phạt, có người tra tấn, giết chóc.

Bồ tát Quán Thế Âm là người lắng nghe tiếng khổ đau nơi thế gian và hiện tới cứu độ. Không trong hình thái thần linh, thiên thần đầy phép lạ và quyền uy, mà ngài hiện thân qua 30 hình thái tượng trưng các giới người trong xã hội để cứu cấp. Nếu người kêu cầu là một phụ nữ, ngài hiện thân ra phụ nữ đến cứu. Nếu người kêu cứu là một vị tướng, một người ngoại đạo, một trong các giai cấp xã hội, một trong các loài trong vũ trụ vô biên… thì ngài liền hóa thân thành thân phận kẻ bị khổ nhục, tội đồ, nạn nhân để cứu cấp. Là người đồng cảnh mới cứu độ kẻ đồng cảnh.

Phật tử là người mang hạnh nguyện quán thế âm- lắng nghe tiếng thế gian cầu cứu mà hiện đến giải vây, giải phóng con người.

Có lẽ những năm trẻ tuổi trong tù, tôi được khai thị về giáo lý Vô Ngã của đạo Phật dưới đáy sâu lòng mình vào lúc nào không hay, làm nên sợi chỉ đỏ của tâm hồn cho những cuộc dấn thân không ngừng nghỉ về sau. Cứ tự bảo hết kháng chiến, hết chiến tranh, hết cộng sản giày xéo dân lành… mình về lại cuộc đời làm thơ, viết văn, nghiên cứu. Nhưng có gì hết đâu như thân phận trần gian khổ lụy trên dải đất hình chữ S kéo dài từng nghìn năm.

Tác giả cuối thập niên 40 lúc ra khỏi nhà tù. (xem trả lời câu hỏi số 1)
Tác giả cuối thập niên 40 lúc ra khỏi nhà tù. (xem trả lời câu hỏi số 1)

Tác giả cuối thập niên 40 sang đầu thập niên 50 sinh hoạt trong tổ chức Gia Đình Phật hóa phổ sau này đổi tên là Gia Đình Phật tử
Tác giả cuối thập niên 40 sang đầu thập niên 50 sinh hoạt trong tổ chức Gia Đình Phật hóa phổ sau này đổi tên là Gia Đình Phật tử

Nghĩa đen vô ngã (anâtman) là không ta, không có cái ta. Nhưng nội hàm mang nghĩa kết dính, tương sinh tương duyên. Trong vũ trụ chẳng có chi tồn tại biệt lập và bất biến, mọi sự mọi vật đều do tổ hợp của nhiều yếu tố duyên ra. Cây lúa kia không thuần túy là một cây lúa biệt lập, tự tại, miên viễn. Cây lúa là một quá trình tương hợp của hạt giống là nhân, cộng với cái duyên của đất, nước, mặt trời, phân bón và sức nông dân lao động để thành quả lúa. Tất cả những yếu tố ấy duyên khởi ra cây lúa. Thiếu bất cứ yếu tố nào, lúa không thành lúa. Đây là hàm nghĩa của vô ngã. Phân tích về con người cũng vậy.

Vô ngã, là lý nhân duyên sinh trong không gian; và Vô thường (anitya) là lý nhân duyên sinh trong thời gian. Từ ý thức nhân duyên sinh, tôi không là cái ta biệt lập mà tương sinh tương dự với người khác. Cho nên sự khổ đau của người khác, người khác bị áp bức cũng là sự khổ đau, áp bức cho bản thân tôi. Tinh hoa của đạo Phật là ở lý duyên khởi hay duyên sinh này, làm cho đạo Phật khác với tất cả mọi hệ thống suy tưởng của các tôn giáo khác. Tự thân của sinh thức này là sự giải phóng và tự do tối hậu cho con người trần lụy và mọi loài trong tam thiên đại thiên thế giới (2) tức vũ trụ.

Một ngày nọ Bồ tát Văn Thù (Mañjurî) đến thăm bệnh Cư sĩ Duy Ma Cật (Vimalakîrti). Hỏi ông bệnh gì ? Cư sĩ Duy Ma Cật đáp : Chúng sinh bệnh nên tôi bệnh. Thuật ngữ Phật giáo của từ chúng sinh bao hàm tất cả các loài hữu tình, chứ không trỏ riêng loài người. Tất cả những chi kết hợp thành sự sống gọi là chúng sinh (chúng duyên nhi sinh). Bệnh của Bồ tát tương lân với bệnh chúng sinh. Nên Bồ tát ra công cứu độ chúng sinh.

Trong bản kinh Phật Việt Nam đầu tiên, Lục độ tập kinh, xuất hiện ở Giao châu vào thế kỷ thứ III Tây lịch, có một câu ứng cho câu hỏi của chị về tác phong Phật giáo : “Bồ tát thấy dân kêu ca liền gạt lệ xông vào nơi chính trường hà khắc để cứu dân khỏi nạn lầm than”. Đạo Phật Việt Nam ở thế kỷ thứ III đã là như thế.

2. Lê Thị Huệ : Nếu nói thành tích của Võ Văn Ái là một trong vài nhà tranh đấu nhân quyền có tầm vóc quốc tế, giữ được ngọn lửa đấu tranh cho Việt Nam từ 1975 cho đến nay ? Ông nghĩ thế nào ?

Võ Văn Ái : Tôi bắt đầu sinh hoạt thế giới khi tham dự Đại hội Quốc tế Thanh niên năm 1958 ở Bodensee bên Đức (Die Erste Internationale Jugendtagung der Fraternitas – Für Eine Brüderliche Welt) bao gồm đại biểu các nước Á châu, Phi châu và Châu Âu. Sau này do tôi hoạt động sớm cho Việt Nam ở Tây phương từ năm 1963 với nhiều dự án có tính quốc tế, rồi có mặt trong tư thế phát biểu thường niên cho nhân quyền Việt Nam tại Ủy hội Nhân quyền LHQ từ năm 1985. Đặc biệt qua các cuộc vận động quốc tế, tôi có dịp tiếp cận giới nhà văn, học giả, nhân sĩ có danh trong thế giới, nên được truyền thông báo chí quốc tế nhắc nhở.

Bản đồ địa lý Trại Cải tạo trên toàn quốc Việt Nam (trên 150 trại) với số lượng 500.000 tù nhân chính trị, do Uỷ ban Bảo vệ Quyền Làm Người Việt Nam công bố tại cuộc họp báo “Bắc hoá chế độ tù ngục tại Miền Nam Việt Nam” (La Nordmalisation des Prisons au Sud Vietnam) tại Paris ngày 29.5.1978. Cuộc họp báo chính trị đầu tiên sau năm 1975 thu hút 60 ký giả truyền hình, truyền thanh và báo chí quốc tế. Kể từ ngày này, công luận thế giới bỏ rơi Cộng sản Hà Nội để ủng hộ cho người Việt dân tộc.
Bản đồ địa lý Trại Cải tạo trên toàn quốc Việt Nam (trên 150 trại) với số lượng 500.000 tù nhân chính trị, do Uỷ ban Bảo vệ Quyền Làm Người Việt Nam công bố tại cuộc họp báo “Bắc hoá chế độ tù ngục tại Miền Nam Việt Nam” (La Nordmalisation des Prisons au Sud Vietnam) tại Paris ngày 29.5.1978. Cuộc họp báo chính trị đầu tiên sau năm 1975 thu hút 60 ký giả truyền hình, truyền thanh và báo chí quốc tế. Kể từ ngày này, công luận thế giới bỏ rơi Cộng sản Hà Nội để ủng hộ cho người Việt dân tộc.

Kỳ thực có hàng trăm, hàng nghìn, hàng triệu người Việt giữ lửa đấu tranh cho Việt Nam suốt thế kỷ XX vừa qua. Nhưng ít được nhắc nên không ai biết. Tôi chỉ là một người Việt trong số trăm, nghìn, triệu người Việt vô danh khác đã đứng lên trong bóng tối chống thực dân, chống độc tài, và đòi hỏi Quyền làm Người Việt Nam.

3. Lê Thị Huệ : Là một phật tử trí thức tích cực dấn thân, theo ông đâu là ưu và khuyết điểm của Phật Giáo Việt Nam ?

Võ Văn Ái : Cái ưu của Phật giáo Việt Nam là con đường tu và hành theo Đại thừa giáo còn gọi Bắc tông (Mahâyâna) được phát triển rất đặc thù và có sáng tạo theo hướng dân tộc bản địa từ trung tâm Luy Lâu trước và sau các thế kỷ bản lề Tây lịch.

Tu thì thực hiện sự giác ngộ cho bản thân, đồng lúc cưu mang giác ngộ cho kẻ khác (tự giác nhi giác tha). Hành động thì không rời việc cứu khổ quần sinh trên mặt đất. Cần thâm nhập chữ khổ (duh??kha) theo giáo lý đạo Phật. Khổ đây không là cái khổ thể xác của con lừa suốt ngày đi quay vòng theo cối xay hay người thợ lao lực nơi công xưởng, mà là không biết đến hệ lụy của vòng tròn miên viễn cột dính mình vào thế phận trầm luân. Cái không biết ấy gọi là vô minh (avidyâ). Vô minh mới chính là mối khổ ách của nhân sinh. Quán sát nhân duyên con người khổ luỵ, đức Phật chỉ cho thấy 12 nhân duyên phát khởi ra luân hồi như một dây chuyền liên tục từ khâu này sang khâu khác (thập nhị nhân duyên : vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử) (3), thì vô minh (mê muội, không sáng suốt) là điểm khởi phát cho mọi trầm luân, hệ lụy.

Đối với ngoại cảnh, do vô minh nên không chân nhận được thực tướng vô ngã, vô thường của sự vật. Đối với nội tâm, vì vô minh nên quay cuồng theo sự phân biệt, vong thức. Giải quyết được vô minh là giải quyết tất cả.

Nói về vô minh của loài người hôm nay đây, vào năm 2009, thì phát kiến khoa học được bao trùm đến chân tơ kẽ tóc, nhưng đứng trước vũ trụ vô biên, khoa học vẫn còn ở vị thế vô minh. Chúng ta, tức khoa học, chỉ mới nắm vững trên phạm vi kiến thức 10% vật chất trong vũ trụ mà thôi. 90% cái gọi là “Vật Đen” (Dark matter / Matière noire) hùng cứ trong vũ trụ mà các nhà khoa học bắt đầu có khái niệm vào những năm 30 thế kỷ XX. Vật Đen vẫn còn là dấu hỏi lớn, vẫn còn trong dạng vô hình, chưa nắm bắt, hiểu biết. Vũ trụ còn che giấu 90% khối lượng nguyên tử của nó, nên chúng ta còn vô minh về 90% khối lượng (vật đen) hiện hữu. Kiến thức nhân loại về vũ trụ chỉ mới đạt ở mức độ 10% mà thôi. Dễ sợ cho những ai dương dương tự đắc về sự hiểu biết hay thông tuệ của mình.

Từ điểm ưu Phật giáo nói trên mà Việt Nam đào luyện ra những con người biết đối ứng với cuộc thế một cách sáng tạo và hùng tráng, như Sư bà Thiều Hoa (một bà Ni, tức nữ tu) năm 36 Tây lịch mộ 500 quân đến ứng chiến với Hai Bà Trưng, rồi tới những Phật tử tham gia 9 cuộc kháng chiến của Khu Liên, Chu Đạt, Lương Long, Khổng Chi và Trụ thiên tướng quân (thế kỷ II TL.) ; anh em bà Triệu Thị Trinh (năm 248 TL.) ; Phật tử Lý Nam Đế dựng lên nhà nước độc lập Vạn Xuân (năm 544 TL.), các đạo sư, thiền sư, cư sĩ Phật tử như Đinh Bộ Lĩnh, Khuông Việt, Vạn Hạnh, Lý Công Uẩn, Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, Trần Hưng Đạo, Lý Thường Kiệt, Nguyễn Trãi, v.v… qua các triều Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê trong việc dựng nước, giữ nước và cứu người.

Một ưu điểm hiếm thấy so với các quốc gia Phật giáo Á châu khác, là vai trò nổi bật của người Cư sĩ Phật giáo trên hai lĩnh vực đạo và đời. Cư sĩ là các nam, nữ Phật tử tu tại gia. Đức Phật Thích Ca xây dựng Cộng đoàn Phật giáo trên bốn tập thể (tứ chúng) : Tăng (nam tu sĩ), Ni (nữ tu sĩ), nam Cư sĩ tu tại gia và nữ Cư sĩ tu tại gia. Nhìn vào các phổ hệ thiền tại Việt Nam sẽ thấy điểm nổi bật ấy. Thường các phổ hệ thiền của các môn phái Phật giáo chỉ thấy tên tuổi đắc pháp của các bậc thiền sư, tức tăng sĩ (các vị xuất gia). Nhưng tại Việt Nam, xuất hiện nhiều Cư sĩ đắc pháp trong các phổ hệ thiền.

Vì pháp lý bình đẳng (chữ Phạn là sama) trong giới người theo đạo Phật bị sa sút, nên ngày nay mới có hiện tượng Tăng sĩ xem Cư sĩ như người sai vặt, kẻ thủ từ, người mang lại két tiền cho chùa. Chứ xưa kia, Cư sĩ không như thế. Vai trò Cư sĩ ở thời đại lập quốc Việt Nam vừa đảm nhiệm vai trò Hộ Pháp (bảo vệ giáo lý giác ngộ), còn hoàn tất cự phách việc Hộ Dân (cứu dân) và Hộ Quốc (bảo vệ nước). Cư sĩ xông vào thế sự - chứ không là thế tục - giải quyết việc thế giới. Chất thế lấn át chất tục trong con người Cư sĩ Phật giáo. Thế ở đây là sinh mệnh nhân loại trong thế giới, mà thế giới cần được hiểu trên hai phạm trù thời gian (thế) và không gian (giới).

Dòng thiền Pháp Vân của ngài Tì Ni Đa Lưu Chi kéo dài từ thế kỷ VI đến thế kỷ XIII gồm toàn các tăng sĩ đắc pháp (kẻ nắm bắt chân lý giác ngộ của đạo Phật). Sang đến dòng thiền Kiến Sơ của ngài Vô Ngôn Thông, từ thế kỷ IX đến thế kỷ XIII, thì 13% thiền sư đắc pháp là Cư sĩ (người tu tại gia). Dòng thiền Thảo Đường từ thế kỷ XI đến một thế kỷ rưởi sau có 50% thiền sư đắc pháp là Cư sĩ. Sau đấy một dòng thiền đặc thù và tổng hợp của Phật giáo Việt Nam là dòng thiền Trúc Lâm Yên tử, đỉnh cao của giới Cư sĩ tham dự trong đời sống giác ngộ đạo cũng như hoàn mãn việc thế sự, được biết dưới chủ trương Cư trần lạc đạo- sống tại thế nhằm thể hiện đạo - đúng theo phong thái của Phật giáo đại thừa “Phật giáo không lìa thế gian để hoàn thành sự giác ngộ” (Phật giáo bất ly thế gian giác). Điều này có nghĩa là tất cả các pháp (sự lý trong đời) đều là Phật Pháp. Một đạo Phật như thế hẳn nhiên là sự chung dự thiết tha và thiết yếu với đời sống con người trên mặt đất. Tôi quan niệm và tin tưởng một đạo Phật như thế.

Vua Trần Nhân Tông hai lần cầm quân chống Nguyên Mông và đại thắng, là một Cư sĩ Phật giáo. Sau trở thành Thiền tổ của dòng Thiền Trúc Lâm. Trần Hưng Đạo là một cư sĩ, Tuệ Trung thượng sĩ là một thiền sư cư sĩ nhưng vẫn cầm quân giữ nước chống Nguyên Mông, xong việc nước mới trở về chùa viện. Sự tham dự của người Cư sĩ Phật giáo vào các lĩnh vực chính trị, văn hóa, ngoại giao, kinh bang tế thế rất phổ biến và đặc thù trong quá trình dựng nước, giữ nước, cứu người, từ cuộc kháng chiến vệ quốc của Hai Bà Trưng tiếp đến các triều đại lâu sau.

Điểm khuyết của Phật giáo Việt Nam ở thời hiện đại, là người học đạo thì nhiều, nhưng người chứng đạo không bao lăm. Người thuyết pháp nhiều, nhưng người thể hiện giáo lý đạo Phật vào cuộc đời hằng nhật quá hiếm hoi. Nói tóm, tu đạo thì có, hóa đạo còn sơ sài.

Đặc biệt là sự vắng bóng của giới Cư sĩ Phật giáo trên chính trường nước Việt. Một thiệt thòi cơ bản cho sự phát triển Việt Nam.

Đương nhiên giới Cư sĩ Phật giáo rất đông. Song họ chuyên tu đạo Phật hơn hành động Phật giáo tức thể hiện Phật trong đời. Đến khi hành động họ tham gia các phong trào phi Phật giáo hoặc phản Phật giáo, thay vì gia công hình thành con đường hành động mới, dựa trên lòng từ bi và trí tuệ. Năm 1963 cuộc tranh đấu cho tự do tín ngưỡng thành công, là cơ hội bằng vàng cho Phật giáo mang lại giải pháp mới để hình thành tự do, bình đẳng, công lý trước ý thức hệ thảm sát của Cộng sản. Nhưng giới lãnh đạo Phật giáo đã đánh mất cơ hội này. Từ năm 1966 trở đi cuộc phân hóa trong cộng đồng Phật giáo trở thành trầm trọng cho tới hôm nay, 2009. Khởi từ sự phân hóa trong giới Tăng lữ lãnh đạo nên mất trí tuệ điều hành cuộc chống trả các thế lực áp đảo bên ngoài nhằm mở ra viễn kiến dân tộc và nhân loại.

Do thiếu kiến thức về thế giới, mắc cạn trong chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, nên một số lãnh đạo Phật giáo không có giải pháp thời thế, bị các thế lực đảng phái khuynh loát, là những nguyên nhân phân hóa giới lãnh đạo Phật giáo làm cho khối lượng quần chúng vạm vỡ Phật giáo không phát triển và tê liệt theo.

Tôi có cảm tưởng ngày nay đa số người tu đạo Phật phục vụ cái chết nhiều hơn sự sống. Tiêu đích họ nhắm là xin chiếu khán vào Niết Bàn, chứ không truyền thừa con đường cứu khổ - trừ diệt vô minh - của đạo Phật, đặc biệt là sinh thức “Cư trần lạc đạo” của nền Phật giáo dân tộc.

Mặt khác do quan điểm thời gian vô hạn, sống nhiều kiếp, nên quán tính lần lữa, trì hoãn, bó tay, không cho họ giải quyết việc đời : Kiếp này không thực hiện được thì chờ kiếp sau, kiếp này không lấy nhau được thì hẹn kiếp lai sinh… đại khái như thế. Trong khi người phương Tây chỉ có tối đa 100 năm để sống, nên họ thu xếp thực hiện mọi sự cho kỳ được nơi cõi trăm năm.

Do có thời gian mênh mông của nhiều kiếp nên trong giới Phật tử còn ít người chú tâm gầy dựng cảnh nhân gian tịnh độ trên trái đất và trước hiện tiền. Họ quên bẵng một cõi Nhân gian tịnh độ có thể thiết lập trên mặt đất. Họ khoán trắng cõi Tịnh độ cho đức Phật A Di Đà nơi cõi Tây phương Cực lạc. Khí thế Phật giáo Lý – Trần chỉ được nhắc nhở, đề cao nhằm thoa vuốt mối tự hào hão, nhưng không được hồi sinh, tái tạo trong Ý thức Dung hóa với xu thế toàn cầu và những tiến bộ ngất trời của nhân loại.

Trong phong trào Chấn hưng Phật giáo khởi từ những năm 20 thế kỷ trước, tôi chỉ thấy một Cư sĩ Phật giáo gương mẫu có ý thức và có hành động thiết lập cõi Nhân gian tịnh độ là Cư sĩ Thiều Chửu Nguyễn Văn Kha ở đất Thăng long. Nhưng ông đã bị Việt Minh bức tử trong phong trào Cải Cách Ruộng đất.

Nhân tổ chức phòng triển lãm tranh tại Paris năm 1967, Henry Miller từ Hoa Kỳ đến thăm tôi, mang một tấm tranh tặng cháu Ái Anh, cháu gái đầu lòng mới sinh. Anh là cha đỡ đầu của cháu. Henry Miller nói một câu làm tôi giật mình và suy gẫm nhiều năm sau : “Ba nghìn năm qua có ai thành Phật sau đức Thích Ca không ?”

4. Lê Thị Huệ: Ông có thể cho biết những đóng góp nổi bật nào của văn hoá Phật Giáo vào trong văn hóa Việt Nam từ trước đến nay ?

Võ Văn Ái : Trong nền văn hóa chủ lưu dân tộc, sắc thái văn hóa Phật giáo rất đậm nét. Nhìn vào kho tàng ca dao, tục ngữ, là mức suy tưởng bộc trực của quần chúng mà ta có thể gọi như nền triết lý đối ứng chưa hệ thống thành triết học, cho đến các tác phẩm bác học đủ minh chứng cho nhận định này. Tâm thức cũng như hành hoạt con người Việt gắn kết với định luật nhân quả (ác giả ác báo) và lòng thương người (lòng từ, thuật ngữ Phật giáo gọi lòng từ bi - kârun?a - mang nghĩa từ là cho vui, bi là cứu khổ). Hiển nhiên nước nào lại không công nhận hay đề cao lòng thương người, lòng bác ái, vậy Việt Nam có gì ngoại lệ ? Thế nhưng, thể hiện lòng thương theo ý thức nhị nguyên (dualism), hay lòng thương là vật tự thân của nguyên lý bất nhị (non-duality), khác nhau lắm trong tiến trình tư tưởng và hành động. Một bên có chủ đích, một bên bất vụ lợi. Câu nói bình dân “thương người như thể thương thân” đại biểu cho ý thức Phật giáo thấm vào lòng ý thức dân tộc. Qua câu này giáo lý Vô ngã, tức giáo lý duyên khởi, duyên sinh cơ bản của Phật giáo được thể hiện một cách tự nhiên và đầm ấm, chứ không là khẩu hiệu hô hoán hay động viên.

Ảnh hưởng cận đại thì căn bản là tâm tư người Phật tử Việt Nam biến thành thái độ chính trị để rộ nở ra văn học nghệ thuật. Đỉnh mốc của ảnh hưởng Phật giáo trong lòng dân tộc rõ nét nhất từ 1963 trở đi. Một sinh-thức-mới phi nhị tướng cũng gọi là bất nhị (non-duality) ra đời đối diện nhằm hóa giải tư tưởng khủng hoảng của Tây phương mà chiến tranh lạnh làm đầu mối cho sự sụp đổ toàn triệt của phương Tây mà chúng ta sẽ chứng kiến vào cuối thế kỷ XXI.

Tuy nhiên cần cảnh giác lý nhân quả để đừng biến nó thành chủ nghĩa định mệnh. Nhân nào quả ấy, ai gây nhân kẻ ấy gặt quả, là đúng. Nhưng hiện nay đa số Phật tử thụ động ngồi chờ sự “ác giả ác báo” ấy như một thứ Phán xét cuối cùng (Jugement dernier), nhưng chẳng ra tay ngăn cản các nhân ác hoành hành.

Trên kia tôi có nhắc biểu tượng cây lúa. Hạt lúa là nhân, cây lúa là quả. Nhưng để cho nhân hình thành ra quả cần có các duyên. Thiếu duyên không thành quả. Duyên đây là đất, nước, gió thuận, mưa hòa, phân bón và sức lao động người nông dân. Thiếu duyên cây lúa bất thành. Cũng thế, nhân tốt là tình yêu, nhưng không có duyên bảo vệ, chia sẻ thì quả hạnh phúc vợ chồng khó hiện hữu. Cho nên có nhân có quả còn phải có duyên lành, mà ta cần hiểu như NHÂN DUYÊN QUẢ để không rơi vào thái độ yếm thế biến NHÂN QUẢ thành chủ nghĩa định mệnh, chờ thời.

Nhân Cộng sản xấu ác đưa tới Quả địa ngục cho Việt Nam. Hẳn phải như thế, khi chưa có sự chung dự của những biệt nghiệp lành (karma individuel, nghiệp của từng cá nhân) của những cá thể nhằm chuyển hóa cộng nghiệp xấu ác (karma collectif, nghiệp của tập thể, cộng đồng).

Vì vậy, Quả tự do cho một nước Việt Nam vẫn có thể hiện thực nếu duyên dấn thân của Người Việt can dự để chuyển Nhân xấu ác Cộng sản thành Quả tự do, dân chủ cho đất nước. Luật Nhân quả cần một khoảng thời gian chuyển biến như một tiến trình. Tiến trình ấy ngắn hay dài tùy thuộc vào duyên can dự. Phật giáo còn quan niệm một Nhân-Quả-đồng-thời, đủ biết khả năng thiên hình vạn trạng mà ý chí con người có thể tham dự để biến khổ đau thành hạnh phúc, nô lệ thành tự do.

Văn hóa Phật giáo là Văn hóa Giác ngộ và Cứu khổ, tiền đề cho Ý thức Sáng tạo trong đời sống và Ý thức Cấp cứu khi nguy biến. Lịch sử dân tộc là một chuỗi dài tham dự cứu nguy của toàn thể quần chúng các giới nhờ thấm nhuần tư tưởng đạo Phật trên ba nguyên lý từ bi (kârun?a), trí tuệ (prajñâ), bình đẳng (sama).

Pháp bình đẳng rất chủ yếu trong đạo Phật. Từ nhận thức chúng sinh đều có tính Phật (Phật tính) nên mọi người đều đồng đẳng, không phân biệt cao thấp, oán thân, giai cấp. Do pháp bình đẳng, lúc sinh thời Đức Phật Thích Ca đã phủ nhận chế độ giai cấp (tứ tính bình đẳng) ở Ấn độ. Trong kinh sách Phật giáo còn phát triển pháp lý bình đẳng từ xã hội lên đến lĩnh vực tư tưởng và tâm linh, như Chân như bình đẳng, Trí bình đẳng, Bình đẳng pháp thân, Bình đẳng đại bi, Bình đẳng đại tuệ, v.v…

Kinh Hoa Nghiêm (Avatam?sakasûtra) nêu ra mười thứ bình đẳng : 1. Hết thảy chúng sinh bình đẳng ; 2. Hết thảy pháp bình đẳng ; 3. Hết thảy cõi nước bình đẳng ; 4. Hết thảy tâm sâu xa bình đẳng ; 5. Hết thảy thiện căn bình đẳng ; 6. Hết thảy Bồ tát bình đẳng ; 7. Hết thảy nguyện bình đẳng ; 8. Hết thảy Ba la mật bình đẳng ; 9. Hết thảy hạnh bình đẳng ; 10. Hết thảy Phật bình đẳng.

5. Lê Thị Huệ : Ông là người có các quan hệ về công việc với các nhà lãnh đạo Phật Giáo Việt Nam như thiền sư Nhất Hạnh, Hoà thượng Quảng Độ, ông có thể cho biết nhận định của ông về hai vị tu sĩ Phật Giáo này ?

Võ Văn Ái : Hai vị cùng xuất phát từ môi trường tu học Phật giáo. Nhưng động lực xã hội thì lại khác. Động lực của Sư Ông Nhất Hạnh có tính cách cá nhân, Phật pháp chỉ là phương tiện phục vụ danh và lợi cá nhân. Động lực của Hòa thượng Quảng Độ bao trùm tính dân tộc và tính nhân loại, Phật pháp là động cơ thăng hoa nhân sinh. Vô tình tên đạo của Hòa thượng lại thể hiện cuộc sống 80 năm qua của ngài như kinh viết : “Quảng độ chúng sinh mãn bồ đề nguyện”- Độ khắp tất cả chúng sinh để thành tựu viên mãn đại nguyện bồ đề (bồ đề là giác ngộ).




(1) Cuối năm 1945 tôi khởi sự hoạt động khi thành lập Đoàn Thiếu niên Sơn Ca tại trường tiểu học Paul Bert, tham gia Đoàn Tuyên truyền Xung phong, và các cuộc biểu tình thành phố. Muốn theo đoàn quân Nam tiến, nhưng nhỏ quá không ai chấp nhận. Tôi đi quyên góp tiền mua mấy chục ki lô khoai khô gửi lên tặng chiến sĩ ở mặt trận Lào, với bức thư động viên chiến sĩ đầu tiên viết trong đời. Chuyện này được đề cao tên báo Chiến sĩ của Giải Phóng Quân, Huế, do Thi sĩ Hữu Loan làm Tổng thư ký toà soạn. Vài tuần sau, một Trung uý từ Lào về Huế, đến trường xin ông Đốc học họp học sinh trước sân để nêu cao gương yêu nước của trò Ái. Vài ngày sau bỗng xuất hiện Đoàn Bạch Yến. Đoàn này chờ trước cổng trường khi tan học, đợi khi anh em chúng tôi trong Đoàn Sơn Ca ra là đánh túi bụi trong một tháng ròng. Chúng sử dụng bàn tay sắt (knuckle-duster/poing américain) và bỏ cát vào bóng điện như lựu đạn vất vào chúng tôi.

(2) Tam thiên đại thiên thế giới (chữ Phạn Tri-sâhasra-mahâ-sâhasra-loka-dhâtu) là ba nghìn thế giới đại thiên, vũ trụ quan của người Ấn Độ xưa. Lấy núi Tu Di làm trung tâm, bao quanh có 4 đại châu, 9 dãy núi và 8 lớp biển bao bọc gọi là một Tiểu thế giới. 1000 Tiểu thế giới hình thành một Tiểu thiên thế giới. 1000 Tiểu thiên thế giới thành một Trung thiên thế giới. 1000 Trung thiên thế giới họp thành một Đại thiên thế giới. Vậy Tam thiên đại thiên thế giới (Tiểu thiên thế giới + Trung thiên thế giới + Đại thiên thế giới) gồm nghìn trăm ức thế giới, chứ không phải nói chung chung là vô số vô biên thế giới. Theo kinh điển Phật giáo, Tam thiên thế giới là lĩnh vực hóa độ do một đức Phật giáo hóa.

(3) Đây là phép tu tập quán sát nhân duyên khiến con người phải mang lấy thân phận khổ luỵ, luân hồi, qua một chuỗi liên tục trong một đời hay nhiều đời. Quán sát để thấy mọi sự mọi vật đều giả tạo, vì mọi sự mọi vật do đối đãi, so sánh mà hình thành, chứ không có thật tính, không có tự tính. Tất cả do duyên mà phát hiện, thay đổi, chẳng có chi tồn tại vĩnh viễn. Nhân duyên hội đủ thì sinh, nhân duyên tan rã thì diệt. Nhưng thực tại vốn không có gì gọi là sinh hay gọi là diệt. Mười hai nhân duyên khởi từ vô minh duyên ra hành, hành duyên ra thức, thức duyên ra danh sắc, danh sắc duyên ra lục nhập, lục nhập duyên ra xúc, xúc duyên ra thọ, thọ duyên ra ái, ái duyên ra thủ, thủ duyên ra hữu, hữu duyên ra sinh, sinh duyên ra lão tửVô minh là không sáng suốt, mê muội. Hành là tâm niệm phân biệt cái riêng ta gây thành hành động xấu vì khởi phát từ vô minh. Thức là vọng thức phân biệt gây ra những hiểu biết sai lầm. Danh sắc do vọng thức theo nghiệp báo duyên ra danh sắc; danh gồm những cái không có hình tướng như cái biết; sắc gồm những hình tướng như thân và cảnh. Lục nhập do thân đối với cảnh sinh ra cái biết thông qua năm giác quan và ý thức : mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý gọi là 6 căn. Khi 6 căn đối diện với 6 cảnh (gọi là 6 trần) sinh ra 6 cái biết, tức sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Mắt thấy sắc, tai nghe âm thanh, mũi cảm mùi hương, lưỡi biết các chất vị, thân cảm sự sờ chạm, ý lĩnh nạp các sự lý (gọi là pháp). Xúc là sờ chạm đối đãi, quan hệ với trần (tức cảnh bên ngoài) ảnh hưởng đến cái biết. Thọ do những quan hệ tâm và cảnh sinh ra các thọ nhận về khổ, vui, buồn… Ái do sự thọ nhận ở trên mà sinh ra lòng ưa, ghét, buồn vui... Thủ là giành lấy cho mình. Hữu do ái và thủ gây nhân nên phải chịu quả tiếp nối. Sinh tức sinh mệnh của sự sống giả tạo do không hiểu rõ lý duyên khởi nên chấp trước mà tưởng có sinh sống. Lão tử là già và chết, sự suy tàn của sinh mệnh.

http://www.queme.net/vie/public_detail.php?numb=1380