Sonntag, 15. Januar 2017

CHIẾN TRANH NHÂN DÂN



CHIẾN TRANH NHÂN DÂN
Tôi mới nghiệm ra được một điều thú vị, rằng cả hai Đảng Cộng sản TQ và VN đã và đang chơi trò ú tim “Chiến Tranh Nhân Dân” với toàn thể dân tộc hai nước. Họ đã sử dụng cả một guồng máy tuyên truyền khổng lồ cộng với một hệ thống công an chìm nổi để kiểm soát tư tưởng người dân và đưa dân chúng hai nước vào con đường ngu tối từ hơn nửa thế kỷ nay. Do đó trước trào lưu tiến hoá của nhân loại bên ngoài, nhất là từ khi có mạng lưới Internet phổ biến tràn lan khắp thế giới thì hai Đảng CS đó hết sức lo ngại. Họ sợ một khi toàn dân hiểu được mánh khoé họ đã dùng để bóc lột sức lao động toàn dân trong nửa thế kỷ nay thì con đuờng cùng của họ sắp kề cận. Khối Liên Xô sụp đổ hồi cuối thập niên 80 là dấu hiệu báo trước rõ ràng.
Vì đứng trước nguy cơ tan rã đó, mà hai Đảng CS phải chung lưng đấu cật tìm cách chống đỡ… chống đỡ cái gì? Chống đỡ sức mạnh của Sự Thật, của trào lưu tiến hoá dân chủ toàn cầu. Họ hè nhau gọi nôm na đó là “Diễn Tiến Hoà Bình”. Họ sợ Hoà Bình, vì lẽ họ rất muốn khơi động chiến tranh để kích động hơn một tỷ con người vào một cuộc chiến tranh tâm lý để họ có cớ mà tiếp tục cai trị (bằng ngu dân và mỵ dân). Đó là lý do tại sao Bắc Triều Tiên cứ nhảy nhổm lên đòi chơi trò bắn súng, thả bom với anh Nam Hàn, sau vụ chìm tàu. Hoa Kỳ cũng không dại gì mà bị mắc mưu. Thế giới ngày nay ở thời đại A Còng (@) Internet không dễ gì bị trúng kế.
Thế thì chúng ta cứ yên tâm bình thản mà “Diễn Tiến Hoà Bình” trong lý luận vững chắc, trong nhận thức khoa học, dân chủ và tự do. Kẻ nóng vội giờ này chính là hai Đảng CS TQ và VN, đó là lý do tại sao các ông lớn VN cứ nằng nặc đòi đi xe lửa cao tốc từ Bắc chí Nam càng sớm càng tốt. Còn ông TQ thì đang vò đầu bứt trán với cái công trình vĩ đại “Đập thuỷ điện Tam Hiệp”, ông chưa dám cắt băng khánh thành vì lo sợ phập phồng với phản ứng của một tỷ rưỡi dân TQ.
Lê Quốc Trinh
Helmuth M. Backhaus | Bild: BR/Historisches Archiv

Helmuth Manuel Backhaus
deutscher Schriftsteller (1920 - 1989)
Ein Diktator darf niemals faul sein. Das ist das Unmenschlichste an ihm.
- Một kẻ độc tài không bao giờ lười biếng. Bởi vì nó không phải là con người
Nghĩa là: Một chế độ độc tài không bao giờ lười biếng trong sự gian dối để mà đàn áp con người... Bởi nó là một con quỷ
- Das heiss : Eine Diktatur ist nie faul in der Unterdrückung von Betrug, die Menschen ... Weil es ein Dämon

Xã hội là chính trị
Chính trị là tư tưởng
Của mỗi một công dân
Sống trong một Quốc gia
Được quyền lên tiếng nói
Sự suy nghĩ của mình
Quyết định và chọn lựa
Tự do và dân chủ
Không như là độc tài
Quyết định thay cho mình
Phải chính mình đòi hỏi
Độc tài sẽ không còn.

KN

Sozialpolitik
Politik ist ideologisch
Jedes Bürgers
Das Leben in einem Land
Um berechtigt zu sprechen
Sein Denken
Entscheidungen und Wahlen
Freiheit und Demokratie
Nicht als Diktator
Entscheidungen für sich selbst
Sei du selbst erfordert
Diktatur wird nicht mehr

Freitag, 13. Januar 2017

Vì sao Đảng Cộng sản Trung Quốc trị được Đảng Cộng sản Việt Nam?



Song Chi – Vì sao Đảng Cộng sản Trung Quốc trị được Đảng Cộng sản Việt Nam?
Có rất nhiều bài báo, cuốn sách phân tích, nghiên cứu về việc tại sao Đảng Cộng sản Việt Nam đã chiến thắng trong cuộc chiến tranh với Mỹ và với phe Việt Nam Cộng hoà. Ở đây tôi chỉ xin nói lại vài điểm trong quan điểm của mình. Tôi cho rằng, trong cuộc chiến với Mỹ trước kia, Đảng Cộng sản Việt Nam có rất nhiều lợi thế và họ đã biết tận dụng tối đa những lợi thế này. Một, đó là họ đã khai thác được lòng yêu nước, tinh thần chống ngoại xâm mạnh mẽ của người dân Việt Nam dưới chiêu bài “chống Mỹ cứu nước” để tiến hành một cuộc chiến tranh thực tế là vì quyền lợi của Đảng Cộng sản Việt Nam và của phe xã hội chủ nghĩa mà đứng đầu là Liên Xô lúc bấy giờ; hai, họ đã nhận được sự hỗ trợ về nhiều mặt từ lương thực, cố vấn quân sự cho đến vũ khí các loại, chẳng hề thua kém gì sự viện trợ của Mỹ dành cho Nam Việt Nam, thậm chí trong giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến khi miền Nam bị cắt giảm viện trợ rồi cúp hẳn thì viện trợ của phe xã hội chủ nghĩa dành cho miền Bắc vẫn hết sức hùng hậu; thứ ba, họ rất biết cách tuyên truyền, định hướng dư luận với nhân dân miền Bắc và với quốc tế, tranh thủ sự ủng hộ của các phong trào phản chiến, phong trào xã hội có tính chất khuynh tả ở các nước phương Tây lúc bấy giờ, thêm một cái may cho họ là báo chí phương Tây, nhất là báo chí của chính nước Mỹ, với cách đưa tin, bài nhấn mạnh về sự kéo dài của cuộc chiến, những tổn thất về tiền bạc và nhất là sinh mạng của người Mỹ, chỉ trích sự sa lầy của chính phủ Mỹ tại Việt Nam v.v… đã góp phần làm cho phong trào phản chiến tại Mỹ dâng cao cộng với dư luận quốc tế dẫn đên việc Mỹ quyết định rút khỏi Việt Nam. Và còn rất nhiều nguyên nhân khác nữa.
Nhưng đến bây giờ nếu xảy ra cuộc chiến với Trung Quốc, Đảng và Nhà nước Việt Nam hoàn toàn không còn có những lợi thế đó nữa. Người dân Việt Nam muôn đời vẫn là một dân tộc rất có tinh thần yêu nước, nhưng liệu bây giờ Đảng Cộng sản Việt Nam có còn nhận được sự ủng hộ 100% của nhân dân nữa không? Những người đảng viên từ trên xuống dưới, đặc biệt là các cấp lãnh đạo, không còn là những người vô sản như ngày xưa mà trái lại, bây giờ họ có quá nhiều tài sản, quá nhiều thứ để mất nên tinh thần chiến đấu chắc chắn cũng không thể bằng như ngày xưa. Nếu xảy ra chiến tranh bây giờ, Đảng và Nhà nước Việt Nam cũng không còn ai là đồng minh như đã từng có Liên Xô, Trung Quốc trước kia… Về mặt tuyên truyền, hướng dẫn dư luận, với nhân dân trong nước, Đảng Cộng sản Việt Nam không còn muốn nói gì thì dân cũng tin và nghe theo, còn trên quốc tế thì cả thế giới đều hiểu rõ chủ nghĩa cộng sản và thực chất cuộc sống của người dân trong những quốc gia do đảng cộng sản lãnh đạo là như thế nào, ngay cả người Nga bây giờ còn phải lên án chế độ cộng sản; nên nếu hai nước “anh em, đồng chí” cùng do hai đảng cộng sản lãnh đạo này có đánh nhau thì thế giới cũng phản đối lấy lệ chứ chẳng ai nhiệt tình can thiệp, tình hình như vậy đã từng xảy ra khi Trung Quốc đánh Việt Nam vào những năm 1979, 1988. Chưa kể nước nào cũng phải nghĩ đến những quyền lợi của đất nước họ, nhân dân họ là trên hết, tại sao họ phải vì Việt Nam – một quốc gia chẳng phải là đồng minh của họ – để đối đầu với Trung Quốc, ảnh hưởng tới bao nhiêu mối lợi về thương mại, kinh tế…?
Trước đây, trong cuộc chiến tranh với một nước dân chủ mà chính phủ rất sợ phản ứng của người dân như nước Mỹ, Đảng Cộng sản Việt Nam tha hồ tận dụng điểm này để tuyên truyền xách động dư luận quốc tế và tạo sức ép về mặt dư luận với nhân dân Mỹ để đến lượt họ, gây sức ép lại với chính phủ Mỹ về cuộc chiến tranh hao người tốn của này. Nhưng với nhà cầm quyền Trung Quốc thì nhà cầm quyền Việt Nam thua vì Đảng Cộng sản Trung Quốc – cũng giống như Đảng Cộng sản Việt Nam, thậm chí còn hơn hẳn một bậc, chẳng hề coi nhân dân họ ra ký lô gì. Còn về việc nướng quân trong chiến tranh thì Trung Quốc sẵn sàng chẳng ngán gì ai. Trong bài viết “Hiểm họa diệt chủng”, tác giả Nguyễn Sơn có nhận xét về việc nếu xảy ra chiến tranh giữa Mỹ và Trung Quốc như sau:
“So sánh về tư tưởng chiến lược quân sự tương lai. Chi Hoatian nhận xét “lý do mà nước Mỹ còn tồn tại vì chưa bao giờ có chiến tranh xảy ra ngay tại trên đất nước của họ. Nếu tình huống chiến tranh xảy ra hôm nay, tôi có thể tiên đoán là khi địch quân đã tràn vô tới thủ phủ Hoa Thịnh Đốn rồi thì Quốc hội Mỹ vẫn còn bận họp để tranh cãi có nên cho phép Tổng thống của họ tuyên chiến hay không? Đó là sự khác biệt giữa Mỹ và Trung Quốc. Chúng ta không phí thời giờ cho những bàn cãi vô bổ này. Đồng chí Đặng Tiểu Bình đã từng dạy “Cái cốt lõi của vấn đề nằm ở sự nhạy bén của Đảng. Một khi Đảng đã quyết định, thì lập tức mệnh lệnh được thi hành, không mất thời giờ vô bổ như các quốc gia tư bản”.
Và:
“Não trạng Trung Quốc từ sau trận chiến biên giới Việt-Trung cũng không thay đổi. Họ sẵn sàng thí mạng dân Trung Quốc nếu phải xảy ra cuộc đối đầu chiến tranh nguyên tử cũng như không ngần ngại sử dụng vũ khí hủy diệt nhân loại để chiến thắng nếu cần. Nếu thế chiến thứ hai hơn 57 triệu người đã bị chết, thì thế chiến thứ ba sẽ khủng khiếp hơn. Đối với lãnh đạo Trung Quốc mạng người chỉ là rơm rạ. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Trung Quốc tuyên bố câu nói lịch sử “nếu phải hy sinh một nửa
dân Trung Quốc, tức là hơn nửa tỷ dân chết đi để giữ cho đảng CSTrung Quốc được tồn tại thì họ vẫn làm”. Vì nếu bị mất Đảng, tức là mất đầu tàu, mất lãnh đạo, mất phương hướng thì Trung Quốc coi như sụp đổ.”
Chưa kể, tất cả những trò ma mãnh, thủ đoạn nào mà Đảng Cộng sản Việt Nam có thể sử dụng với đối phương thì Đảng Cộng sản Trung Quốc còn là thầy của họ trong những trò này nữa. Cả hai quốc gia này đều nắm trong tay toàn bộ ngành báo chí truyền thông trong nước, tha hồ chỉ đạo cho báo chí nói gì thì nói, muốn đổi trắng thay đen, sửa đổi lịch sử, muốn tuyên truyền chính nghĩa về phía mình, bôi nhọ kẻ thù, kích động lòng căm thù của nhân dân, định hướng dư luận trong nước… tha hồ. Tuy nhiên, cho đến nay, mới thấy báo chí truyền thông Trung Quốc mạnh miệng trong lĩnh vực này, hết thẳng tay chửi Việt Nam là “lòng lang dạ sói”, “tiểu nhân bỉ ổi không biết xấu hổ”, rằng nếu “cuộc chiến tranh Trung-Việt năm 79 vẫn chưa đủ dạy cho Việt Nam một bài học tơi bời thì trong bài học lần này, chúng ta cần làm triệt để, để Việt Nam có được bài học nhớ đời và cũng là vì lợi ích lâu dài của Trung Quốc” hoặc “phải giết bọn giặc Việt Nam để làm vật tế cờ trong trận chiến thu hồi Nam Sa” và những kiểu hù dọa, lăng mạ, bôi nhọ, vu cáo khác nhau trong rất nhiều bài báo đăng trên một số trang báo mạng chính thức của Trung Quốc, đã được dịch và đăng lại trên trang Bauxite Vietnam gần đây. Trong khi đó thì báo chí Việt Nam suốt một thời gian dài không được phép nói bất cứ điều gì bất lợi cho “mối quan hệ hữu hảo” giữa hai nước, mãi đến gần đây mới thấy đưa tin ngư dân Việt Nam bị tàu Trung Quốc bắt giữ, cướp tài sản, đòi tiền chuộc… chẳng hạn.
Nếu Đảng Cộng sản Việt Nam chuyên nói ngược, nói một đằng làm một nẻo thì Đảng Cộng sản Trung Quốc còn hơn thế nữa. Hãy xem cái cách Đảng Cộng sản Trung Quốc một mặt cứ đem chiêu bài 16 chữ vàng trong mối quan hệ giữa hai nước ra để làm yên lòng những nhà cầm quyền Việt Nam nhưng mặt khác vẫn để yên cho báo chí thóa mạ Việt Nam, cho tàu bè ngang nhiên bắt bớ ngư dân Việt Nam… thì đủ hiểu. Nếu Đảng Cộng sản Việt Nam không biết ngán sợ dư luận thế giới trong hàng loạt hành vi bắt bớ, giam cầm những người bất đồng chính kiến, thẳng tay đàn áp tôn giáo, ngang nhiên tuyên bố chính công an và chính quyền là thủ phạm tấn công và đánh sập hàng loạt các trang báo mạng độc lập và trang blog cá nhân có những quan điểm trái chiều với nhà nước v.v… thì Đảng Cộng sản Trung Quốc, với thế mạnh của một cường quốc kinh tế đứng hàng thứ hai trên thế giới hiện nay và là chủ nợ của nhiều nước kể cả Mỹ, càng không coi dư luận thế giới ra cái gì. Nói như thế để nếu có một cuộc chiến tranh xảy ra giữa Việt Nam và Trung Quốc, có điều gì mà Trung Quốc không dám làm rồi sau đó phủi tay, tìm cách nói ngược lại trước dư luận thế giới? Ở Trung Quốc cũng như ở Việt Nam, làm gì có báo chí độc lập để lên án chính phủ sa lầy trong một cuộc chiến vô nghĩa, buộc chính phủ phải rút lui như ở Mỹ? Còn người dân Trung Quốc thì đã được báo chí chuẩn bị tinh thần, định hướng dư luận trong suốt một thời gian dài để phần lớn họ sẽ tin rằng “đánh cho bọn Việt Nam xấu xa một trận” là đúng.
Tuy nhiên, thiết nghĩ, trong thời đại này, việc một nước nào đó sử dụng con đường quân sự, con đường chiến tranh để đánh chiếm một nước khác cũng là kế hạ sách. Thay vào đó, Đảng Cộng sản Trung Quốc có hàng ngàn cách khác để vẫn nắm được Đảng Cộng sản Việt Nam trong tay, qua đó khai thác tối đa những gì có thể khai thác được từ mảnh đất hình chữ S này. Đó là việc sử dụng sức mạnh mềm – ở đây là vừa dùng tiền để mua chuộc các cấp lãnh đạo tham nhũng có hạng của Việt Nam, vừa sử dụng mối quan hệ “láng giềng hữu hảo”, “anh em đồng chí” như một lá bùa dán lên miệng để làm yên lòng giới lãnh đạo Việt Nam; lũng đoạn chính trị, lũng đoạn kinh tế, làm cho kinh tế Việt Nam ngày càng phải lệ thuộc vào Trung Quốc, mặt khác, chiếm đoạt dần dần lãnh thổ lãnh hải của Việt Nam mà không tốn một viên đạn. Dù là một nước lớn nhưng trong cách hành xử từ trước đến nay với các nước láng giềng nhỏ yếu hơn trong đó có Việt Nam, Trung Quốc chưa bao giờ tỏ ra là một nước đàn anh chính nhân quân tử, sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn để lừa các nhà cầm quyền Việt Nam vào tròng, giành lấy từng kilomet đất, biển; trong làm ăn kinh tế thì chỉ toàn tính lợi cho nước mình còn sự mất mát, thiệt hại lâu dài thì nước khác phải gánh chịu. Điều này cũng đang diễn ra trong mối quan hệ của Trung Quốc với một số quốc gia khác, nhất là ở Châu Phi.
Trong nhiều năm dài, Đảng Cộng sản Việt Nam với các thế hệ lãnh đạo liên tiếp chỉ là những kẻ tham lam, bạc nhược, quan trí thấp, tầm nhìn ngắn, lại thêm nỗi lo sợ phải bảo vệ thể chế chính trị này bằng mọi giá, đã thua trắng tay các thế hệ lãnh đạo Trung Quốc vốn thâm sâu, trăm mưu ngàn kế, lại không che giấu một tham vọng bành trướng đã ăn sâu vào máu từ bao đời nay. Đảng Cộng sản Trung Quốc thừa hiểu nỗi sợ lớn nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam là phải giữ vững chế độ cho dù có phải chịu lệ thuộc vào ngoại bang (ở đây là Trung Quốc), có phải mất đất mất biển; họ cũng biết rât rõ điểm yếu của Đảng Cộng sản Việt Nam nằm ở đâu và họ triệt để khai thác những điểm này. Chẳng hạn như Đảng Cộng sản Việt Nam rất sợ mất tính chính danh trước nhân dân nếu để cho nhân dân thấy giới lãnh đạo Đảng chỉ là bọn bán nước, nhu nhược, thì Đảng Cộng sản Trung Quốc cứ ngang nhiên và thường xuyên cho tàu vào ra vùng biển thuộc lãnh hải của Việt Nam, bắt bớ đánh đập đòi tiền chuộc các ngư dân Việt Nam… buộc nhà cầm quyền Việt Nam hiện nguyên hình là những kẻ hèn với giặc ác với dân trong mắt người dân Việt Nam; hoặc nếu Đảng Cộng sản Việt Nam rất sợ những bí mật về ông Hồ bị phơi bày ra thì đó cũng là một trong những con bài để Đảng Cộng sản Trung Quốc gây áp lực khi cần v.v… Nói tóm lại, chơi kiểu gì, chơi đường nào thì Đảng Cộng sản Việt Nam cũng dưới cơ Đảng Cộng sản Trung Quốc mà thôi. Hay nói cách khác, chỉ có Đảng Cộng sản Trung Quốc là trị được Đảng Cộng sản Việt Nam vì tất cả những lý do trên. Điều đó lý giải vì sao trước nhà cầm quyền Trung Quốc, nhà cầm quyền Việt Nam trở nên bạc nhược, hèn hạ đến vậy.
Đảng Cộng sản Việt Nam vì những quyền lợi của họ mà phải hèn nhát chịu cho Đảng Cộng sản Trung Quốc ép mọi bề, nhưng còn nhân dân Việt Nam – một dân tộc đã từng có một lịch sử lâu dài vượt qua mọi âm mưu thôn tính, mọi cuộc chiến tranh tàn khốc, mọi sự nghiệt ngã của số phận để tồn tại, lẽ nào ngày hôm nay chúng ta lại chịu để cho lịch sử 1000 năm lệ thuộc phương Bắc sẽ lặp lại nhưng tinh vi hơn, tàn nhẫn hơn? Lẽ nào nhân dân Việt Nam lại cứ cam chịu để cho Đảng Cộng sản Việt Nam và một nhóm những kẻ nắm quyền lãnh đạo cao nhất được phép thay mặt nhân dân dâng đất, dâng biển, bán rẻ tài nguyên, biến mảnh đất này thành nguồn lợi khai thác đồng thời là bãi rác thả của đủ thứ độc hại từ sản phẩm kém chất lượng cho tới bùn đỏ bauxite… của nước khác? Đất nước này không phải chỉ của Đảng Cộng sản và của một nhóm người để họ có quyền muốn làm gì thì làm. Bao nhiêu quốc gia đã chọn được một con đường đúng để đi, kể cả những quốc gia từng một thời sai lầm như Liên Xô cũ và các nước Đông Âu nay cũng đã vượt qua được quá khứ, sao nhân dân ta phải cam chịu đi con đường sai thành ra lẻ loi không bè bạn không đồng minh, một mình đối mặt với hiểm họa từ phương Bắc?
Song Chi


Trọng ơi là Trọng Lú đến cở này Đầu độc dân Việt Quên đi nguồn gốc Cội nguồn tổ tiên Ngàn năm nô lệ Bao lần chống Hán Giữ gìn bờ cõi Đất Việt bao đời Lú ơi là lú Cả đảng của lú Tham quyền cố vị Triều đại ông Hồ Bán đứng giang sơn Cho người Hán tộc KN

Donnerstag, 12. Januar 2017

Làm người thế kỹ...

Lenin nói
Không nên để cho cuộc sống được dễ dàng là bền vững cho chế độ độc tài.
Nghĩa là
"Là đàn áp bịt miệng báo chí tiếng nói tự do dân chủ của người dân"
Unterdrückt Stimmen mundtot Pressefreiheit und Demokratie des Volkes
Làm người thế kỹ...
Làm người cho đáng làm người
Không như bầy khỉ cúi đầu lặng thinh
Dân kêu dân chết dân than
Cùng nhau tiếng nói độc tài hại dân
Độc tài phong kiến từ lâu
Quyền hành bạo lực lên đầu người dân
Gây ra nỗi sợ vô hình
Trên đầu trên cổ gông cùm nhân dân
Dân oan dân chết ngoài khơi
Ngư nghiệp mất hết không ngoài Trung Hoa
Nông dân mất đất kêu vang
Công nhân rên xiết quặn mình đau thương
Tiểu thương chợ búa rên la
Siêu cao thuế nặng giết dần tiểu thương
Doanh nghiệp nhà nước đở đầu
Đồ ăn độc hại giết mòn dân ta
Tuyên truyền giã dối mị dân
Nước nhà độc lập nhờ ơn bác Hồ "Đảng cộng sản"
Chia ly tữ biệt muôn nhà
Thành ra tự chủ cho loài Bắc phương
Công trình xây dựng nước nhà
Gói thầu Trung Quốc còn gì nước ta
Công nhân là lính trá hình
Lập khu tự trị nước ta thôi rồi
Làm người không lẻ nhẫn tâm
Như bầy quỹ đỏ lạc loài Trung Hoa
Độc tài đảng trị ai ơi
Tham quyền cố vị tôi đòi bác Mao
Làm người chính trực hôm nay
Không luồn không cúi trước bầy gian tham
Đứng ngay nói thẳng ngẫng đầu
Không sợ không hãi là người chúng ta
Làm người thế kỹ hôm nay
Trí tuệ rộng mở con đường quang vinh
Tư do dân chủ phải đòi
Không đòi không hỏi ai ban cho mình
Tự do dân chủ đa nguyên
Con đường phía trước tuy xa mà gần
Nói lên tiếng nói của mình
Cùng nhau tiếng nói nối vòng nước Nam
KN

Mác nói theo chủ thuyết duy vật, chế độ phong kiến là một chế độ người bóc lột người. Chúng ta phải đòi quyền lợi và bình đẳng phân chia quyền lợi. Để tiến tới không còn cảnh con người bóc lột con người nữa. Nhưng câu kết thúc của Mác không có được rỏ ràng. Ai sẽ là người điều hành Quốc gia...? Và Lenin đã thực hành để nắm chặt quyền lợi trong tay không cho người dân được hưởng quyền lợi của sự tự do... dân chủ đa nguyên trị.

Đảng ta học theo kinh điển Mác- Lenin đây, Một chế độ độc tài vững mạnh là phải dùng bạo lực để cướp Chính quyền rồi sau đó ta thành lập một chế độ bạo lực hơn chế độ phong kiến "Vua Chúa"

Hiệp định phân định lãnh hải Việt-Nam, Trung-quốc ngày 25-12-2000.


Hồ Chí Minh và Ðảng CSVN đã bán nước cho Trung Quốc như thế nào?
Vụ cắt lãnh hảị
Hiệp định phân định lãnh hải Việt-Nam, Trung-quốc ngày 25-12-2000.
Từ giữa thế kỷ thứ 19 về trước, chưa từng có việc ấn định rõ lãnh hải Việt-Hoạ Tuy nhiên vào thế kỷ thứ 15, Việt-Nam đã định lãnh hải qua vụ nhà vua sai vẽẠ Hồng đức bản độ Theo bản đồ này thì các quần đảo Hoàng-sa (Tây-sa) và Trường-sa (Nam-sa) thuộcÐại-Việt. Và hai quần đảo đó đều thuộc Việt-Nam cho đến khi Bộ Chính-trị thời 1958 trao cho Trung-quốc (trên lý thuyết). Vào những thời kỳ ấy (1500-1887), Thủy-quân cũng như thương thuyền, tầu đánh cá của cả Hoa lẫn Việt chỉ là những thuyền nhỏ, không ra xa bờ biển làm bao, nên chưa có những đụng chạm. Sau khi triều Nguyễn của Việt-Nam ký hòa ước năm 1884, công nhận quyền bảo hộ của Pháp; thì người Pháp mới định rõ lãnh hảị Nước Pháp với tư cách bảo hộ Việt-Nam, đã ký với Thanh-triều hòa ước 1887, định rõ lãnh hải trong vùng vịnh Bắc-Việt.Ðối với hòa ước này, Việt-Nam đã chịu khá nhiều thiệt hại, vì mất một số đảo, mà dân chúng là người Việt, nói tiếng Việt, mặc y phục Việt, sống trong văn hóa Việt. Cho đến nay (2001), dân trên các đảo này vẫn còn nói tiếng Việt, ẩm thực theo Việt, và dùng y phục Việt. Chúng tôi đã từng thăm vùng này hồi 1983. Tuy nhiên với hòa ước 1887, lãnh hải vịnh Bắc-Việt được phân chia như sau: Trung-quốc 38% Việt-Nam 62% .Ðối với người Pháp, thời đó họ chưa hiểu rõ tình trạng giữa Trung-hoa và Việt-Nam, họ thấy Thanh-triều chấp nhận 38%, thì cho rằng mình thắng thệ Còn Thanh-triều khi đạt được 38%, họ coi như một món quà trên trời rơi xuống. Vì trong quá trình lịch sử, Trung-quốc vẫn coi vịnh Bắc-Việt là của Việt-Nam. Chứng cớ:
- Vùng đất Hợp-phố là đất cực Nam của Trung-quốc, thế nhưng lại có hải cảng Bắc-hảị Bắc đây chỉ có thể là Bắc đối với Việt-Nam. Nếu là đất của Trung-quốc họ phải gọi là thị xã Nam-hải chử Rõ ràng vùng này là đất cũ của Việt-Nam.
- Vùng vịnh nằm ở phía Nam Trung-quốc, phía Tây đảo Hải-Nam, phíaÐông Bắc Việt-Nam mà Pháp-Hoa ký hòa ước 1887 đó, Việt-Nam gọi là vịnh Bắc-Việt. Trung-quốc cũng gọi là vịnh Bắc-bô Cho đến nay (2001), họ cũng vẫn dùng tên đọ Vậy thì rõ ràng vịnh này của Việt-Nam. Nếu của Trung-quốc thì họ phải gọi là vịnh Nam-bộ chử Bây giờ đến hiệp định Việt-Hoa 25-12-2000 thì vùng vịnh Bắc-bộ được chia ra như sau: Việt-Nam 53% Trunguốc 47%. So với trước 1887 thì Việt-Nam chỉ mất có 38%, nay mất thêm 9% nữa!
4.5 - Ảnh hương vụ cắt lãnh hảị
4.5.1 - Mất lãnh hải, quốc sản.
Theo hiệp định này thì rõ ràng đảng Cộng-sản Việt-Nam đã nhường cho Trung-quốc tới 9% lãnh hải vùng vịnh Bắc-Việt. Cái đau đớn là vùng nhượng là vùng:
- Có nhiều hải sản về cá thu, cá song, cá hồng, mực là những loại hải sản quỵ - Dưới đáy biển có mỏ hơi đốt, và dầu lửạ - Một số đảo trong vùng nhượng, thuộc Trung-quốc.
4.5.2 - An ninh quốc gia bị đe dọạ
Nếu vụ nhượng đất nguy hại về phương diện tinh thần, kinh tế, thì vụ nhượng lãnh hải lại nguy hại về an ninh. Vì Trung-quốc có thể dùng các đảo này làm phi trường quân sự, căn cứ Hải-quân để uy hiếp Thủ-đô Hà-nội và các tỉnh trung châu Bắc-Việt và miền Trung, miền Nam Việt-Nam. Tin của ECL ghi lại, trong những cuộc hội đàm Hoa-Việt về lãnh hải, Trung-quốc đòi cho được mấy đảo nhỏ trong vùng. cũng những tin của ECL về các cuộc hội của Bộ Chính-trị đảng Cộng-sản Việt-Nam thì việc chủ trương nhượng các đảo do quyết định của toàn thể, không do ba ông Cố-vấnÐỗ Mười, LêÐức-Anh hay Võ Văn-Kiệt.Ðể tỏ ý hoàn toàn quy phục Trung-quốc, Bộ Chính trị, cũng trao cho Trung-quốc toàn bộ kế hoạch phòng thủ phía Bắc Việt-Nam. Theo ý kiến chúng tôi, thì trong Bộ Chính-trị bấy giờ, nhóm quân đội rất mạnh, chủ chốt có ba vị tướng là Lê Khả-Phiêu, Phạm Văn-Trà, Phạm Thanh-Nhàn. Trong tài liệu này, có phần ước tính tình hình Trung-quốc, Việt-Nam, đại lược như sau:
"- Trung-quốc không có khả năng dùng Không-quân tấn công vào Thủ-đô Hà-nội và các tỉnh đồng bằng Bắc-bô Vì khoảng cách từ các phi trường Quảng đông, Quảng-tây, Vân-nam, Hải-Nam quá xạ Phi cơ chỉ có thể tới oanh tạc, nhưng trở về thì không đủ nhiên liệụ
- Nếu Trung-quốc tiến công bằng đường bộ, thì ít nhất phải có một triệu quân. Với một triệu quân mỗi ngày cần 10.000 lượt ô-tô tiếp tệ Mà đường bộ thì các ngả Lai-châu, Lào-cai, Hà-giang không dùng được. Chỉ có ba ngả chính tạm dùng. Một là Lạng-sơn, hai là Hạ-long (Quảng-yên cũ) ba là Cao-bằng. Ba ngả đó đường xá gồ ghề, núi non hiểm trợ Với 10.000 lượt xe, thì chỉ ba ngày là đường nát hết.
-Ðịa thế hiểm trở, khúc khuỷu của ba con đường này, chỉ cần ba người đóng một chốt, cũng đủ cản trở một ngày tiếp tệ - Trong bối cảnh chiến tranh Hoa-Việt xẩy ra, thì Thủ-đô cũng như Bộ Chính-trị, Bộ Tổng Tư-lệnh có thể chuyển vào Thành-phố Hồ Chí-Minh.
- Trường hợp đó bắt buộc Trung-quốc phải dùng đường biển tiếp tế, chuyển quân. Hai quân cảng lớn sử dụng sẽ là Bắc-hải, Quảng-châu, Hải-Nam. Cả ba cùng xa, rất khó khăn".
Bây giờ Trung-quốc được mấy đảo trong vịnh Bắc-Việt, rất gần với thềm lục địa của trung châu Bắc-bộ , miền Trung và miền Nam. Nếu như Trung-quốc thiết lập căn cứ Không-quân, Hải-quân, trạm tiếp vận tại đây, thì toàn bộ lãnh thổ Việt-Nam bị uy hiếp nặng nệ Ông Lê Khả-Phiêu, Phạm Văn-Trà, Phạm Thanh-Nhàn đều là tướng lãnh, từng cầm quân trên 40 năm, thì các ông phải biết rõẠ điều đọ Biết, nhưng các ông vẫn làm, thì có nghĩa là các ông muốn: "Việt-Nam vĩnh viễn nằm trong vòng kiềm tỏa của Trung-quốc". Còn như các ông ấy làm việc đó để Ðược gì, cho ai, vì ai thì tôi chịụ...
Posted by Kunieda Aoi Huynh









Mittwoch, 11. Januar 2017

PHẬT GIÁO VÀ CHÍNH TRỊ


Đường lối Phật Giáo đến với quyền uy chính trị là đạo đức hóa và sự sử dụng có trách nhiệm về quyền lực của đại chúng. Đức Phật thuyết giảng về bất bạo động và hòa bình như một thông điệp cho toàn thể vũ trụ. Ngài không chấp nhận bạo động hay sự phá hoại đời sống. Ngài tuyên bố, không có một cuộc chiến tranh nào được gọi là "chính đáng".
Học thuyết của Đức Phật giảng dạy không căn cứ trên "Triết Lý Chính Trị". Học thuyết này cũng chẳng phải để khuyến khích con người thụ hưởng lạc thú thế gian mà để chỉ rõ cho thấy con đường đạt Niết Bàn. Nói một cách khác, mục đích rốt ráo là chấm dứt ái dục trói buộc con người trong thế giới này. Câu kệ trong Kinh Pháp Cú đã khéo tóm tắt sự xác định ấy như sau: "Con đường dẫn đến lợi lạc trần gian là một, và dẫn đến Niết Bàn bằng cách sống một cuộc đời đạo hạnh lại là một con đường khác". Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là người Phật Tử không thể, hay không nên tham gia vào hoạt động chính trị vốn là một thực thể trong xã hội.
PHẬT GIÁO VÀ CHÍNH TRỊ
Thùy Linh
Đức Phật là người chinh phục vĩ đại nhất. Ngài chinh phục thế giới bằng vũ khí của tình thương và chân lý. Giáo lý của Ngài soi sáng Con đường cho nhân loại để vượt qua thế giới tối tăm, hận thù và đau khổ, để đến thế giới của ánh sáng, tình thương và hạnh phúc. Đó là cuộc chinh phục vĩ đại nhất mà loài người được biết cho đến nay. Theo Phật Giáo, phép màu nhiệm nhất chính là giúp một kẻ độc ác trở thành một người thánh thiện. Ngài là thái tử nhưng đã từ bỏ ngai vàng để xuất gia cầu tìm chân lý giúp nhân loại thoát khỏi khổ não. Tuy không còn dính đến quyền thế, nhưng giáo lý của Ngài lại rất gần gũi với con người, kể cả các chính trị gia. Nhân Nội các mới của đất nước được thành lập, Quốc hội mới đang nhóm họp kỳ đầu tiên, tiện ngày nghỉ cuối tuần, TL mời bạn bè đọc trích đăng phần nói về Đạo Phật và Chính trị của hòa thượng K.Sri Dhammnanda do Thích Tâm Quang dịch.
Rất mong các quan chức bớt chút thời gian ghé mắt đến khi có thể, hoặc Thùy Linh nhờ ai đó in ra cho các vị ấy đọc để soi lại mình để tu tâm, tu tính…Tất nhiên từ không đọc đến đọc đã là một chặng đường dài. Từ đọc đến thực hành còn dài tít tắp nữa…Nhưng với thiện tâm là một Phật tử, Thùy Linh cứ post lên đây và hy vọng, hy vọng…
Hòa thượng K.Sri Dhammnanda do Thích Tâm Quang dịch.
PHẬT GIÁO VÀ CHÍNH TRỊ
Đức Phật thuộc dòng dõi vua chúa nên đương nhiên có liên hệ với các bậc quan quân và đại thần. Mặc dù mối liên hệ và giao tiếp đó, Ngài không bao giờ dùng đến ảnh hưởng quyền uy chính trị để quảng bá giáo lý của Ngài. Ngài cũng không cho phép giáo lý của Ngài được lạm dụng để đạt uy quyền chính trị…Có một vấn đề cố hữu là người ta hay đem trộn lẫn tôn giáo vào chính trị. Căn bản của tôn giáo là đạo đức, thanh tịnh và đức tin, trong khi căn bản của chính trị là quyền thế. Khi tôn giáo được sử dụng để thỏa mãn ý đồ chính trị, tôn giáo phải đi trước những lý tưởng đạo đức cao cả và trở nên mất giá trị bởi những yêu cầu chính trị trần tục. Sức đẩy của Phật Pháp không phải nhằm vào việc tạo lập các thể chế chính trị mới và các cuộc cải tổ chính trị. Phật Pháp căn bản tìm cách giải quyết các khó khăn của xã hội bằng cách cải tạo chính những con người thành lập xã hội ấy, bằng cách đề nghị một số nguyên tắc tổng quát để xã hội được hướng dẫn tới tinh thần nhân cao cả hơn, để cải tiến phúc lợi cho các thành viên và chia sẻ tài nguyên công bằng hơn. Thể chế chính trị chỉ có một giới hạn nào đó trong việc bảo toàn hạnh phúc và sự thịnh vượng của người dân. Không có một hệ thống chính trị nào, dù lý tưởng đến đâu đi nữa, có có thể mang lại thực sự hòa bình và hạnh phúc chừng nào con người còn bị chi phối bởi tham, sân và si. Dù một hệ thống chính trị tốt và công bằng, bảo đảm nhân quyền căn bản, bao hàm sự hạn chế và quân bình trong việc sử dụng quyền lực là một điều kiện quan trọng cho đời sống hạnh phúc trong xã hội, người ta cũng không nên lãng phí thì giờ vào sự tìm kiếm bất tận một hệ thống chính trị chủ yếu mà con người có thể hoàn toàn được tự do. Vì tự do hoàn toàn không thể tìm trong bất cứ một hệ thống nào mà chỉ tìm thấy trong những tâm đã được tự do mà thôi. Muốn được tự do, con người phải nhìn trở vào nội tâm mình và hành hoạt làm sao để giải thoát chính mình khỏi xiềng xích của vô minh và tham dục. Tự do trong ý nghĩa đúng nhất của nó chỉ có thể đạt được khi một người biết sử dụng Pháp để phát triển cá tính qua lời nói và hành động chính đáng và rèn luyện tâm ý để phát triển tiềm năng tinh thần và hoàn tất mục tiêu giác ngộ tối hậu.
Trong khi công nhận sự ích lợi của việc tách rời tôn giáo với chính trị và những giới hạn của hệ thống chính trị trong việc mang hòa bình và hạnh phúc, có nhiều khía cạnh của lời Phật dạy tương đồng gần gũi với sự cải biến chính trị hiện tại.
- Trước tiên, Đức Phật đã nói về sự bình đẳng của tất cả mọi người, trước cả Abraham Lincoln. Ngài còn nói những giai tầng và đẳng cấp xã hội là những chướng ngại nhân tạo dựng nên bởi xã hội. Theo Ngài chỉ có sự phân chia thứ hạng con người được căn cứ trên phẩm cách, đạo đức.
- Thứ hai, Đức Phật khuyến khích tinh thần hợp tác xã hội và sự tham gia tích cực vào xã hội. Tinh thần này được tích cực đẩy mạnh trong tiến trình chính trị của xã hội tiên tiến.
- Thứ ba, vì Đức Phật không chỉ định ai là người thừa kế Ngài nên thành viên của Tăng Đoàn được hướng dẫn bởi Giáo Pháp và Luật, hay nói tóm lại bởi Giới Luật. Cho đến ngày nay, thành viên của Đoàn Thể Tăng Già đều phải tuân theo Giới Luật. Giới Luật chi phối và hướng dẫn tư cách đạo đức họ.
- Thứ tư, Đức Phật khuyến khích tinh thần trao đổi ý kiến và tiến trình dân chủ. Điều này được thể hiện trong phạm vi Đoàn Thể Tăng Già mà tất cả thành viên đều có quyền quyết định những công việc chung. Khi nêu lên một vấn đề nghiêm trọng đòi hỏi sự chú ý, những cách giải quyết được đưa ra giữa các tỳ kheo để bàn luận giống như trong hệ thống nghị trường dân chủ hiện tại. Thủ tục theo chế độ tự quản này đã làm cho nhiều người ngạc nhiên khi biết rằng trong các hội trường Phật Giáo tại Ấn Độ cách đây hơn 2500 năm đã thấy có những nguyên tắc sơ đẳng của thể thức áp dụng tại nghị trường ngày nay. Một giới chức đặc biệt giống như vị Chủ Tịch Viện được chỉ định để bảo quản phẩm cách của hội nghị. Một giới chức thứ hai được chỉ định giống như vai trò của Nghị Viên phụ trách tổ chức (Chief Whip) để kiểm soát túc số (tức số đại biểu qui định). Những vấn đề được đưa ra thảo luận dưới hình thức đề nghị. Trong một số trường hợp, vấn đề chỉ cần biểu quyết một lần, có trường hợp phải đến ba lần. Thủ tục này đã đi trước Nghị Viện ngày nay đòi hỏi một dự án phải được đọc lần thứ ba truớc khi thành luật. Nếu cuộc thảo luận có những ý kiến dị biệt, vấn đề phải được quyết định bằng đa số tuyệt đối trong một cuộc đầu phiếu kín.
Đường lối Phật Giáo đến với quyền uy chính trị là đạo đức hóa và sự sử dụng có trách nhiệm về quyền lực của đại chúng. Đức Phật thuyết giảng về bất bạo động và hòa bình như một thông điệp cho toàn thể vũ trụ. Ngài không chấp nhận bạo động hay sự phá hoại đời sống. Ngài tuyên bố, không có một cuộc chiến tranh nào được gọi là "chính đáng".
Ngài dạy: "Kẻ chiến thắng gieo hận thù, kẻ chiến bại sống đời lầm than. Ai là kẻ từ bỏ cả thắng lẫn bại, kẻ đó hạnh phúc và an lạc". Không những Đức Phật dạy bất bạo động và hòa bình, Ngài là vị Đạo Sư Tôn Giáo duy nhất thân hành đến chiến trường để ngăn cản chiến tranh. Ngài đã hóa giải sự căng thẳng giữa hai dòng họ Thích Ca và Koliyas sắp sửa khởi chiến trên dòng sông Rohini. Ngài đã thuyết phục được Hoàng Đế A-Xà-Thế dừng binh đi đánh Vương Quốc Vajjis. Đức Phật thảo luận sự quan trọng về điều kiện tiên quyết của một chính quyền tốt. Ngài trình bầy cho thấy một đất nước đi đến thối nát, suy đồi, bất hạnh như thế nào khi người cầm đầu chính phủ nhũng lạm và bất công. Ngài chống lại sự tham nhũng và cho biết chính quyền cần hành động ra sao căn cứ trên nguyên tắc nhân đạo. Đức Phật có lần nói: "Khi người cầm quyền quốc gia công bằng và đức hạnh, các bộ trưởng (đại thần) cũng trở nên công bằng và đạo hạnh; khi các bộ trưởng công bằng và đạo hạnh, những giới chức cao cấp trở nên công bằng và đạo hạnh; khi các giới chức cao cấp công bằng và đạo hạnh, đội ngữ và đoàn sinh trở nên công bằng và đạo hạnh; khi đội ngữ và đoàn sinh trở nên công bằng và đạo hạnh, người dân trở nên công bằng và đạo hạnh". (Tăng Chi Bộ Kinh). Trong kinh Cakkavatti Sihananda, Đức Phật dạy vô luân và tội ác, như trộm cắp, lừa dối, bạo động, sân hận, độc ác, có thể phát xuất vì nghèo khổ. Các vua chúa và chính quyền có thể cố gắng ngăn chận tội ác bằng hình phạt, nhưng chỉ dùng võ lực để triệt tiêu tội ác thì vô ích. Trong kinh Kutadanta, Đức Phật khuyến dụ nên phát triển kinh tế thay vì võ lực để giảm thiểu tội ác. Chính quyền nên sử dụng tài nguyên quốc gia để cải tiến điều kiện kinh tế trong nước. Có thể bắt tay vào việc phát triển nông nghiệp và mở mang nông thôn, hỗ trợ tài chánh cho các nhà thầu và người kinh doanh, trả lương xứng đáng cho công nhân để duy trì cuộc sống tươm tất có nhân cách. Trong kinh Jataka, Đức Phật dạy mười điều cần thiết cho một chính quyền tốt được gọi là "Dasa Raja Dharma". Mười điều này có thể áp dụng cả đến ngay nay cho bất cứ một chính quyền muốn trị nước hòa bình. Những nguyên tắc đó là:
1. Không thành kiến và tránh ích kỷ.
2. Duy trì đặc tính luân lý cao.
3. Sẵn sàng hy sinh lạc thú riêng tư cho hạnh phúc của người dân
4. Chân thật và hết sức liêm chính.
5. Sống cuộc đời thanh bạch cho người dân tích cực noi gương.
6. Không bị bất cứ hình thức sân hận nào.
7. Bất bạo động.
8. Thực hành hạnh kiên nhẫn.
9. Tôn trọng ý kiến quần chúng để động viên hòa bình và hòa hợp.
Về tư cách của người lãnh đạo, Ngài khuyên thêm:
1. Người cầm quyền tốt hành động vô tư, không thành kiến và không kỳ thị giữa nhóm này với nhóm khác.
2. Người cầm quyền tốt không ấp ủ bất cứ loại sân hận nào với bất cứ ai.
3. Người cầm quyền tốt phải tỏ ra không sợ hãi bất cứ điều gì khi thi hành luật pháp, nếu luật pháp ấy đúng.
4. Người cầm quyền tốt phải có sự hiểu biết rõ ràng luật lệ thi hành. Không phải là luật lệ phải thi hành chỉ vì người cầm quyền có quyền hành để thi hành luật ấy. Luật pháp phải được thi hành một cách hợp lý và hợp với lẽ phải thông thường.-(Kinh Cakkavatti Sihananda)
Kinh Milanda Panha có nêu như sau: "Nếu một người thiếu tư cách, thiếu khả năng, không thích hợp, bất lực và không đáng làm vua, tự mình tôn phong làm vua hay người trị vì với uy quyền to lớn, kẻ đó sẽ bị hành hạ khổ sở...phải chịu nhiều hình phạt bởi người dân, vì thiếu tư cách và không xứng đáng, đã tự mình lên ngôi vua bất chính". Người cầm quyền, cũng như những người khác vi phạm và đi quá giới đức và nguyên tắc căn bản của tất cả luật lệ xã hội trong nhân loại, thì cũng phải chịu hình phạt. Hơn thế nữa, người cầm quyền bị khiển trách đã sử sự như một tên ăn cắp của công. Câu chuyện trong Kinh Jataka có nêu rằng, người cầm quyền mà trừng phạt người vô tội, không trừng phạt kẻ có tội thì không xứng đáng trị vì đất nước. "Nhà Vua lúc nào cũng phải tự mình thăng tiến, và cẩn thận quán chiếu hạnh kiểm của mình trong hành vi, lời nói và tư tưởng, luôn luôn cố gắng tìm tòi và lắng nghe ý kiến đại chúng xem mình có phạm lỗi lầm hay sai sót trong việc trị vì vương quốc. Nếu có sự trị vì sai quấy, họ sẽ kêu ca khi bị thiệt hại bởi sự bất lực của người cầm quyền do chính sách hình phạt, thuế má, bất công hay những áp bức kể cả sự tham nhũng dưới bất cứ hình thức nào, và người dân sẽ chống lại nhà cầm quyền bằng cách này hay cách khác. Trái lại, nếu nhà vua trị vì minh chánh, thần dân sẽ chúc phúc ngài: Hoàng Thượng Muôn Năm". (Majjhima Nikaya - Trung Bộ). Đức Phật nhấn mạnh về trọng trách của người cầm quyền biết dùng sức mạnh quần chúng để cải tiến phúc lợi cho dân như Hoàng đế Asoka đã làm vào thế kỷ III (TCN). Asoka, một tấm gương sáng chói về nguyên tắc này vì vua đã quyết định sống đúng theo Giáo Pháp và truyền bá Chánh Pháp để phục vụ dân chúng và nhân loại. Vị Hoàng Đế này tuyên bố không dùng võ lực với quốc gia lân bang, cam kết thiện chí này bằng cách gửi các sứ giả cùng với thông điệp hòa bình và không gây hấn đến những vị vua ở xa. Ngài đã động viên sự phát huy các đức hạnh xã hội như chân thật, trung thành, từ bi, nhân ái, bất bạo động, cư xử đứng đắn với mọi người, không phung phí, không hám lợi, và không làm tổn thương thú vật. Ngài khuyến khích tự do tôn giáo và sự tôn kính lẫn nhau giữa các tôn giáo. Ngài tổ chức các cuộc thuyết Pháp định kỳ cho các đồng bào tại nông thôn. Ngài phụ trách các công việc lợi ích công cộng, như thiết lập các bệnh viện cho người và vật, cung cấp thuốc men, trồng cây cối trên các đường lộ và rừng, đào giếng, xây cất các trạm tiếp tế nước và các nhà tạm trú. Ngài triệt để cấm ác độc với thú vật.
Có đôi khi Đức Phật được xem như một nhà cách mạng xã hội. Chẳng hạn như Ngài lên án hệ thống giai cấp, xác nhận sự bình đẳng giữa mọi người, lên tiếng về sự cần thiết cải tiến các điều kiện kinh tế xã hội, công nhận tầm quan trọng của việc chia sẻ hợp lý của cải giữa người giàu và người nghèo, nâng cao địa vị phụ nữ, khuyến cáo tinh thần hợp tác nhân đạo trong chính quyền và nền hành chánh, dạy rằng không nên điều hành xã hội bằng lòng tham mà phải bằng lòng tôn trọng và từ ái đối với dân chúng. Ngoài những việc như trên, sự đóng góp của Đức Phật cho nhân loại còn vĩ đại hơn nhiều vì Ngài đã phát động một điểm mà từ trước tới nay chưa có một nhà cải cách nào đã làm bằng cách đi ngược vào gốc rễ thâm sâu nhất của tính bất thiện nằm trong tâm con người. Cải cách chân chính chỉ có thể có hiệu quả khi được thực hiện ngay trong tâm con người.
Những cải cách bằng sức mạnh trên thế giới bên ngoài đều rất ngắn hạn vì không có gốc rễ. Nhưng những cải cách nẩy sanh từ kết quả của sự thay đổi tâm thức bên trong con người mới có gốc rễ lâu dài. Khi những cánh cây đâm chồi mọc nhánh, chúng sẽ rút dinh dưỡng từ một nguồn không bao giờ cạn là những thôi thúc do bản năng của dòng sống đang trôi chảy. Cho nên những cải cách chỉ hữu hiệu khi tâm con người đã chuẩn bị sẵn sàng phương cách, và chúng chỉ được duy trì được bao lâu mà con người còn biết bồi dưỡng sinh khí cho chúng bằng tình yêu thương chân lý, công bằng, và đồng loại. Học thuyết của Đức Phật giảng dạy không căn cứ trên "Triết Lý Chính Trị". Học thuyết này cũng chẳng phải để khuyến khích con người thụ hưởng lạc thú thế gian mà để chỉ rõ cho thấy con đường đạt Niết Bàn. Nói một cách khác, mục đích rốt ráo là chấm dứt ái dục trói buộc con người trong thế giới này. Câu kệ trong Kinh Pháp Cú đã khéo tóm tắt sự xác định ấy như sau: "Con đường dẫn đến lợi lạc trần gian là một, và dẫn đến Niết Bàn bằng cách sống một cuộc đời đạo hạnh lại là một con đường khác". Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là người Phật Tử không thể, hay không nên tham gia vào hoạt động chính trị vốn là một thực thể trong xã hội.
Cuộc sống của những thành viên trong xã hội được hình thành bởi luật lệ và quy tắc, bởi những cải cách kinh tế hợp pháp trong nước, những sự canh tân về tổ chức ảnh hưởng bởi các nguyên tắc chính trị của xã hội ấy. Tuy vậy, nếu một Phật tử muốn hoạt động chính trị, người đó không nên dùng tôn giáo để đạt uy quyền chính trị, và cũng không nên khuyến bảo những ai đã từ bỏ cuộc đời trần tục sống một cuộc đời thanh tịnh, đạo hạnh tham gia hoạt động chính trị.


Độc tài độc trị người hay
Đầu dân thuốc độc qua đường ăn chơi
Tự do ta cũng có thừa
Phong bì quà cáp là đường tiến thân
Uống bia say xỉn suốt ngày
Cho mình bạc nhược quên đời lầm than
Quên đi tiếng nói của mình
Nước nhà đỏ thắm máu người dân ta


KN

Hồ Chí Minh và Ðảng CSVN đã bán nước cho Trung Quốc như thế nào?


Cái cây số không đó là cây số 5 cũ đấỵ Cột cây số Zéro bây giờ ở phía Nam cột Zéro cũ 5 cây sộ Từ cây số Zéro đến cây số 5 nay thuộc Trung-quốc.
Sát cây cầu Nam-quan, phía bên Trung-quốc cũng như Việt-Nam, đều có nhiều cơ sở:
Ai chịu trách nhiệm khi ký hai hiệp định trên? Cá nhân thì tôi không biết, nhưng có một điều tập thể thì ai cũng khẳng định là Bộ Chính-trị của đảng Cộng-sản Việt-Nam.
Việt-Nam nhường cho Trung-quốc dọc theo biên giới, 789 cây số vuông (chứ không phải 720 như tin lộ ra trong nươc), thuộc hai tỉnh Cao-bằng, Lạng-sơn.
Trong khu vực này dân chúng, gia đình liệt sĩ đã ghi dấu tưởng niệm thân nhân ho Nay trao cho Trung-quốc, dĩ nhiên các di tích này bị phá hủỵ Dân chúng đang là lực lượng chóng mặt với kẻ thù, bảo vệ lãnh thổ, nay họ bỗng trở thành những người Trung-quốc bất đắc dị Các vòng đai phòng thủ bị mất. Dân tộc Việt-Nam mất mát về an ninh quá nhiềụ
Hồ Chí Minh và Ðảng CSVN đã bán nước cho Trung Quốc như thế nào?
Tiếp theo
Kính thưa Quý-vị,
Bây giờ tôi xin điều trần sang phần thứ nhì, đó là:
4. Vụ nhượng lãnh thổ mới đâỵ
* Hiệp định về biên giới trên đất liền Việt-Nam, Trung-quốc ngày 30-12-1999.
* Hiệp định phân định lãnh hải Việt-Nam, Trung-quốc ngày 25-12-2000.
4.1 - Ai chịu trách nhiệm về hai hiệp định.
Hai hiệp định này đều ký trong thời gian 1999-2000. Vào thời kỳ này tại Việt-Nam thì:
- Ông Lê Khả-Phiêu làm Tổng Bí-thư đảng Cộng-sản ViệtNam,
- Ông TrầnÐức-Lương làm Chủ-tịch nhà nước,
- Ông NôngÐức-Mạnh làm Chủ-tịch Quốc-hội,
- Ông Phan Văn-Khải làm Thủ-tướng.
- Ông NguyễN Mạnh Cầm làm Bộ trương Ngoại-giaọ
Ai chịu trách nhiệm khi ký hai hiệp định trên? Cá nhân thì tôi không biết, nhưng có một điều tập thể thì ai cũng khẳng định là Bộ Chính-trị của đảng Cộng-sản Việt-Nam. Không cần biết người ký là Chủ-tịch TrầnÐức-Lương, Thủ-tướng Phan Văn-Khải hay Bộ-trương Ngoại-giao Nguyễn Mạnh-Cầm. Tôi xin khẳng định: Ai ký cũng chỉ là người tuân lệnh Bộ Chính-trị đảng Cộng-sản Việt-Nam.
Nhưng người quyết định là aỉ ?!?
Ông Phan Văn-Khải, Nguyễn Mạnh-Cầm - Hai ông này không có quyền, dù có quyền các ông ấy cũng không dám quyết định. Ông Lê Khả-Phiêu quá yếu, không thể quyết định một mình. Ông TrầnÐức-Lương, NôngÐức-Mạnh càng không có quyền gị Vì vậy tôi mới quyết đoán rằng vụ này do Bộ Chính-tri đảng Cộng-sản chủ trương. Hiện tất cả các ông trong Bộ Chính-trị thời Lê Khả-Phiêu vẫn còn sống, rất khỏe mạnh. Khi quyết định nhượng đất, biển cho Trung-quốc các ông ấy đều biết rất rõ rằng:
- Tinh thần dân chúng bây giờ không phải như dân chúng hồi 1540. Trình độ dân chủ, phương tiện thông tin của đảng viên, của dân chúng vượt xa hồi 1958. Uy tín của Tổng Bí-thư Lê Khả-Phiêu không thể so sánh với Chủ-tịch Hồ Chí-Minh năm 1958. Mỗi vị trong Bộ Chính-trị bây giờ là một mảng, chứ không thể là một khối như Bộ Chính-trị hồi 1958. Các vị trong Bộ Chính-trị thời Lê Khả-Phiêu đều biết trước rằng: Ký hiệp ước nhượng lãnh thổ trong lúc này không thể bịt miệng, dấu diếm đảng viên cũng như dân chúng. Thế nhưng các ông ấy vẫn làm! Vì vậy phải có nguyên do gì trọng đại lắm. Liệu các ông có thể công bố cho quốc dân biết không?
- Thời gian ấy (1999-2000) đảng Cộng-sản lấn át Chủ-tịch Nhà-nước, cũng như Thủ-tướng nhất.Ðến nỗi Chánh-văn phòng Thủ-tướng chỉ vì nói một câu không mấy lịch sự với người đàn bà có thế lực trong đảng, mà bị bắt giam không lý do, Thủ-tướng không thể can thiệp cho ông ta tại ngoạị.
- Quyền gần như nằm trong tay ba ông Cố-vấn là cựu Tổng Bí-thưÐỗ Mười, cựu Chủ-tịch nhà nước LêÐức-Anh và cựu Thủ-tướng Võ Văn-Kiệt. Ba ông này như ba Thái-thượng hoàng thời Trần. Tuy mang danh Cố-vấn, nhưng ba ông vẫn còn uy quyền tuyệt đốị
- cũng trong thời gian ấy, cả thế giới (trừ Trung-quốc) đều có chính sách ngoại giao rất đẹp với Việt-Nam: Hoa-kỳ (Tổng-thống Bill Clinton), Liên-Âu, các nước ASEAN đang theo đuổi chính sách ngoại giao rất mềm dẻo với Việt-Nam. Nhất là Tổng-thống Clinton ký sắc lệnh bỏ cấm vận Việt-Nam, mở cửa cho sinh viên Việt-Nam sang du học Hoa-kỳ, mở cửa cho hàng Việt-Nam được nhập vào Hoa-kỵ Nói tóm lại thời gian từ nửa năm 1999 cho đến cuối năm 2000, Việt-Nam không bị một áp lực quốc tế nguy hiểm nào, đến độ phải nhượng đất, nhượng biển cho Trung-quốc để được viện trợ vũ khí, để được che chở.
- cũng thời gian trên, Trung-quốc, Việt-Nam không có tranh chấp lãnh thổ, không có đụng chạm biên giới, không có căng thẳng chính trị, không có chiến tranh. Vậy vì lý do nào mà các ông ấy cắt đất, cắt biển cho Trung-quốc? 4.2 - Chi tiết vụ cắt đất.
Vụ cắt đất ký ngày 30-12-1999, thì tôi được biết tin chi tiết, do hai ký giả Trung-quốc là bạn với tôi thông vào ngày 9-1-2000. Nghĩa là 10 ngày saụ Hai anh thuật, theo tinh thần bản hiệp định thì:
- Việt-Nam nhường cho Trung-quốc dọc theo biên giới, 789 cây số vuông (chứ không phải 720 như tin lộ ra trong nươc), thuộc hai tỉnh Cao-bằng, Lạng-sơn.
- Có mấy hiệp định thư (Photocol) đính kèm về việc thi hành. Quan trọng nhất là :
- Nhượng vùng Cao-bằng, sát tới hang Pak-bó, nơi Chủ-tịch Hồ Chí Minh ẩn thân lãnh đạo cuộc kháng chiến. Hang này trở thánh địa của đảng Cộng-sản Việt-Nam. Trước kia nằm rất xa biên giới (khoảng 50 km), nay nằm sát biên giớị
- Nhượng vùng đất bằng phẳng thuộc tỉnh Lạng-sơn nơi có cửa ải Nam-quan.
Thưa Qúy-vị,
4.3 - Ảnh hưởng vụ cắt đất.
4.3.1 - Mất biểu tượng năm nghìn năm của tộc Việt.
Khu Ải Nam-quan này là vùng đất thiêng, là Thánh địa trong mấy nghìn năm của người Việt. Bất cứ người Việt nào từ 6 tuổi trở lên đều biết rằng Ải Nam-quan là vùng đất tượng trưng biên giới phía Bắc, tượng trưng cho lãnh thổ, cho tinh thần tự chủ, cho niềm niềm tự hào của hoÐây là vùng đất đi sâu vào lịch-sử, văn-học và tâm tư toàn thể người Việt. Trở về quá khứ, trong lần mạn đàm giữa Chủ-tịch Mao TrạchÐông và Chủ-tịch Hồ Chí Minh. Chủ-tịch Mao Trạch Ðông đã nói:
"Cái tên Ải Nam-quan, nhắc nhở đến cuộc chiến do bọn phong kiến Hoa, Việt làm xấu tình hữu nghị nhân dân. Tôi xin đổi thành Mục Nam-quan. Mục là mắt, coi như nhân dân Trung-quốc luôn hướng mắt nhìn về nhân dân Việt ở phương Nam. Ngược lại coi như mắt của nhân dân Việt luôn nhìn về Bắc với tình hữu nghị".
Chủ-tịch Hồ Chí-Minh vui vẻ chấp thuận. Nhưng trên thực tế, chỉ có phía Trung-quốc in trên bản đồ địa danh Mục Nam-quan mà thôị Còn phía Việt-Nam trên bản đồ hành chính, trên báo chí, văn học, vẫn dùng từ Ải Nam-quan hay cửa Hữu-nghị.
4.3.2 - Mất cửa ngõ giao thông lịch sử giữa tộc Hoa, tộc Việt.
Tôi đã nhiều lần từ Việt-Nam sang Trung-quốc bằng cửa ải này và ngược lạị lãnh thổ Hoa-Việt được phân chia bởi một con sông nhọÐây là cửa họng giao thông của Trung-quốc, Việt-Nam bằng đường bô Suốt hơn mấy nghìn năm qua, dân Hoa-Việt giao thương đều qua đâỵ Chính vì vậy mà con đường quốc lộ xuyên Việt mang tên Quốc-lộ 1, được đánh số cây số Zéro từ đầu cây cầu Nam-quan. Tất cả thư tịch Việt-Nam đều chép rằng:
"Con đường Bắc-Nam khởi từ ải Nam-quan".
Hoặc : "lãnh thổ Việt-Nam Bắc giáp Trung-hoa, khởi từ ải Nam-quan đến mũi Cà-mâu, theo hình chữ S".
Bây giờ nếu Quý-vị vào Website của Bộ Ngoại-giao Việt-Nam, Quý-vị sẽ không thấy hàng chữ trên, mà chỉ thấy câu: "lãnh thổ Việt-Nam khởi từ cây số không ở phía Bắc".
Thưa Quý-vị,
Cái cây số không đó là cây số 5 cũ đấỵ Cột cây số Zéro bây giờ ở phía Nam cột Zéro cũ 5 cây sộ Từ cây số Zéro đến cây số 5 nay thuộc Trung-quốc.
Sát cây cầu Nam-quan, phía bên Trung-quốc cũng như Việt-Nam, đều có nhiều cơ sở:
- Cơ sở Hải-quan.
- Bai đậu cho hằng trăm xe tải, để chờ kiểm soát, chờ làm thủ tục nộp thuế.
- Cơ sở di trú của Công-an để kiểm soát Passeport.
-Ðồn của quân đội để tuần phòng, bảo vệ lãnh thộ
- Hằng chục cơ quan, khác như Bưu điện, Ngân-hàng, công ty điện, nước.
- Về phía dân chúng, hằng trăm cửa hàng ăn, nhà ngủ, khách sạn.
Các cơ sở phía Nam thuộc Việt-Nam, trong chiến tranh Hoa-Việt 1978, quân đội Trung-quốc đã san bằng hết. Kể cả cây cột biên giớị Tuy vậy sau chiến tranh, đã xây dựng lại hoàn toàn. Từ khi có phong trào mở cửa, đổi mới chính trị, dân chúng cả hai bên đã xây dựng lại khang trang hơn cũ, rộng lớn hơn cũ, và hiện đại hơn cụ Nhưng từ khi hiệp định 30-12-1999 ký thì toàn bộ khu này thuộc Trung-quốc. những cơ sở đó bây giờ được thay bằng một tòa nhà duy nhất.
4.3.3, Mất dân, mất di tích lịch sử
Ði sâu vào khu vực phía Nam của Nam-quan ít cây số nữa là quận lỵÐồng đăng, rồi tới tỉnh lỵ Lạng-sơn.Ðây cũng là đất thiêng, khu có di tích văn hóa lịch sử của tộc Việt:Ðộng Tam-thanh, tượng núi Tô-thị, thành của bọn giặc Mạc trên núị Vùng Lạng-sơn xưa là Thủ-đô của con cháu giặc MạcÐăngÐung, mà năm 1540 đã dâng đất cho Trung-quốc, để được bao che cát cứ quân phiệt một thời gian. Trong chiến tranh Hoa-Việt 1978, hầu như toàn bộ các cơ sở kỹ nghệ, cầu cống, dinh thự, di tích tôn giáo, lịch sử, cơ sở hành chính, thương mại, kể cả nhà cửa của dân chúng bị san bằng. Chắc Quý-vị cho rằng tôi dùng từ Coventry có đôi chút quá đáng. Thưa Quý-vị từ Coventry cũng chưa đủ để chỉ việc quân đội Trung-quốc đã làm ở Lạng-sơn. Kinh khiếp nhất là động Nhất-thanh, Nhị-thanh, Tam-thanh, họ cũng dùng đại bác bắn vào làm hư hại rất nhiềụ
Ði sâu về phía Nam ít cây số nữa là Ải Chi-lăng, nơi mà quân Trung-quốc vượt qua không biết bao nhiêu lần để tiến về thủ đô Thăng-long của Việt-Nam xưạ Tại đây đã diễn ra những trận chiến ác liệt, khiến ít nhất 73 vạn quân của các triều đại Tống, Mông-cổ, Minh, Thanh bị giết. Và cũng tại đây, có không biết bao nhiều tướng của các triều đại trên bị tử trận. Khi quân Việt giết những tướng, dù vào thời kỳ nào chăng nữa thì đầu vẫn bêu tại một mỏm núi, gọi là núiÐầu-quỵ Tại ải Chi-lăng, núi Ðầu-quỷ đều khắc bia đá ghi lại di tích lịch sự Hồi chiến tranh Hoa-Việt 1978, khi các tướng Hồng-quân cho quân tiến đến đây, nghe nhắc chuyện cũ thì họ toát mồ hôi lạnh, phải ngừng lạị May mắn thay khu này vẫn còn thuộc lãnh thổ Việt.
Trở lại vùng đất mà đảng Cộng-sản Việt-Nam đã nhượng cho Trung-quốc, dĩ nhiên họ nhượng cả dân chúng nữạ Trong năm nghìn năm lịch sử chiến tranh Hoa-Việt, dân chúng, chiến sĩ tại vùng này là lực lượng đầu tiên chống quân Trung-quốc. Họ phải hy sinh tính mạng, tài sản đầu tiên, khi quân Trung-quốc đánh sang. Có không biết bao nhiêu di tích, huyền sử về núi non, về sông ngòi về cuộc chiến, về gương anh hùng. Chính quyền các triều đại đều tuyên dương công lao của họ, họ từng hãnh diện đời nọ sang đời kiạ Bây giờ vùng này trao cho Trung-quốc, kẻ thù năm nghìn năm của họ- Họ bị mất mát quá nhiều về tinh thần. Họ phải cúi mặt chịu sự cai trị của kẻ thụ Bao nhiêu di tích lịch sử, huyền sử phải phá bỏ, không được nhắc tớị Thương tổn tinh thần quá lớn Gần đây nhất, trong chiến tranh 1978, phía Việt cũng như Trung-quốc, chôn trên lãnh thổ mình, dọc theo biên giới mấy chục vạn quả mìn. Sau chiến tranh mới đào lên. Phía Việt lập rất nhiều đồn, hầm, công-sự chiến đấu dọc biên giới thành 4 vòng đaị Mấy chục nghìn chiến sĩ Việt tử trận tại đâỵ Hiện những cơ sở đó vẫn còn. Trong khu vực này dân chúng, gia đình liệt sĩ đã ghi dấu tưởng niệm thân nhân ho Nay trao cho Trung-quốc, dĩ nhiên các di tích này bị phá hủỵ Dân chúng đang là lực lượng chóng mặt với kẻ thù, bảo vệ lãnh thổ, nay họ bỗng trở thành những người Trung-quốc bất đắc dị Các vòng đai phòng thủ bị mất. Dân tộc Việt-Nam mất mát về an ninh quá nhiềụ
Còn phần chót Lãnh Hãi
Posted by Kunieda Aoi Huynh



Aĩ Nam Quan nay còn đâu nữa Mục Nam Quan nay thuộc Trung Hoa Cửa khẩu hữu nghị tình vong bản Sang nhượng đất nhà lấy tình thân Bạn vàng bốn tốt hơn dân tộc Uy quyền một cỏi cho đảng ta KN