Freitag, 26. Mai 2017

Bi kịch của tư duy Việt Nam

Bi kịch của tư duy Việt Nam



NKPTC

Cả nước ngủ mê, tiếng thở như sấm, mà bác đứng ngoài muôn dặm, kêu gào hò hét, có được công hiệu là bao nhiêu, tất phải có người ở trong gõ trán xách tai người ta mà đánh thức dậy, thì họa chăng lòng người mới không đến nổi chết hết. Nay tôi về trong nước đóng vai Mã Chí Nê. Còn Bác ở ngoài làm Gia Lý Ba Đích, chia ra làm hai đường mà đều đi tới, chúng ta lấy cái chết thề cùng nhau cho có thủy có chung”.

"Xét lịch sử xưa, dân nào khôn ngoan biết lo tự cường tự lập, mua lấy sự ích lợi chung của mình thì càng ngày càng bước tới con đường vui vẻ. Còn dân thì ngu dại, cứ ngồi yên mà nhờ trời, mà mong đợi trông cậy ở vua ở quan, giao phó tất cả quyền lợi của mình vào trong tay một người, hay một chính phủ muốn làm sao thì làm, mà mình không hành động, không bàn luận, không kiểm xét, thì dân ấy phải khốn khổ mọi đường. Anh chị em đồng bào ta đã hiểu thấu các lẽ, thì phải mau mau góp sức lo toan việc nước mới mong có ngày cất đầu lên nổi."
 (Phan Chu Trinh-1920)

Nếu một khi quần chúng nhân dân không còn lưu tâm đến công việc chính trị xã hội, thì các Ông và Tôi, và Quốc Hội, Lập Pháp, Chánh Án, Thống Đốc, tất cả sẽ trở thành những con Chó Sói. Điều này dường như là luật tự nhiên  thuộc bản chất tổng quát của chúng ta, cho dù có vài ngoại lệ cá nhân. Tổng thống Mỹ Thomas Jefferson nói với dân biểu  Edward Carrington.(If once [the people] become inattentive to the public affairs, you and I, and Congress and Assemblies, Judges and Governors, shall all become wolves. It seems to be the law of our general nature, in spite of individual exceptions." : Thomas Jefferson to Edward Carrington, 1787)

-Bán khai là do tầm nhận thức thấp, kém cỏi chưa vượt đến mức độ căn bản  của nhân bản;

-Băng hoại là do quan niệm bất chính gian manh lừa đảo..

-Nỗi băn khoăn và buồn phiền của chúng ta là dù đã đi vào thế kỷ tứ 21, chúng ta vẫn phải lập đi lập lại nhiều lần những ý niệm giá trị căn bản về con ngưòi, về xã hội và chính trị với đồng bào của mình, những ý niệm đã trở thành bình thường đơn giản trong những xã hội dân chủ tiến bộ hơn trăm năm nay. -Chúng ta cũng vẫn phải lập lại những ý niệm căn bản về con ngưòi, về con đường truy tìm tự do hạnh phúc cho Con Ngưòi của Khổng Tử, Mạnh Tử, Thomas Paine, Jefferson, Phan Chu Trinh v.v.. tất cả cách đây đã lâu lắm rồi. Nhưng hôm nay, ngưòi Việt cẫn cứ chưa hiểu, chưa tiếp nhận vào làm giá trị nền tảng để hành xử, dù hàng ngày, trên đài báo, từ văn phòng công sở cho đến cá nhân,  tất cả vẫn nói bằng sáo ngữ, rỗng tuếch như những con vẹt.

- Xã hội, cộng đồng và con ngưòi Việt Nam (trong và ngoài) giống như những kẻ mê ngủ, ngủ vùi, rồi khi bị náo nhiệt của chung quanh đánh thức, họ loạng choạng bước ra đưòng ngỡ ngàng với những sự kiện đổi thay, hoảng hốt với những giá trị “mới”, nhìn sự vật, sự việc “mới”, tần ngần bán tín bán nghi những ý niệm “mới” quá khác lạ với lúc mình đi ngủ- mà thật ra đã trở thành việc hôm qua của mọi ngưòi chung quanh. Nhưng thay vì can đảm thành tín với lương năng, ước muốn cầu  tiến  tiếp nhận để c ó nhận thức cao hơn, hăng hái hòa nhập giòng đời hiện tại, thì ngưòi Việt Nam vẫn ngái ngủ sợ sệt chối bỏ thực tại trước mắt như kẻ bán khai trên núi, trong rừng bưóc xuống xã hội tiến bộ, điệu bộ hung hăng nhưng co rút mặc cảm ;chính  từ nỗ lực hung hăng chối bỏ thực tại biến đổi chỉ để bảo  vệ c ái  “ giá trị hôm qua” vẫn còn mơ màng trong giấc mộng, chưa dứt bỏ được, đã khiến nó trở thành  tính dị ứng với hiện tại và mất khả năng tiếp nhận và dự phóng khai phá tương lai, một đặc tính, phẩm tính cần thiết của văn minh tiến bộ- Khi dị ứng trở thành tuyệt vọng chống trả, vô vọng lưu giữ, tinh thần và nếp tư duy trở thành tính ngoan cố của gian manh trí trá và biến dạng thành nếp tư duy băng hoại.

Sự kiện hôm nay, sau hơn 40 năm, 
vẫn chưa đủ nghị lực để lương thiện nhìn lại chính mình, để nhìn ra tính ngụy trá của cả chế độ lẫn nhân cách hành xử của nhóm họ; vẫn tiếp tục gian manh vô liêm sỉ tuyên truyền hư cấu lá cờ là chính thống linh thiêng  v.v Họ bất chấp bằng chứng lý lẽ, vẫn cứ tuyên truyền len lỏi và càn bậy gieo vào đầu ngưòi Việt, thế hệ nối tiếp, dân trí vốn còn thấp, những hư cấu cờ quạt, hư cấu lãnh tụ, hư cấu về quá khứ. Họ lợi dụng dân trí thấp của ngưòi Việt trong ngoài,  theo đúng chủ trương đưòng lối tuyên truyền mà Đức Quốc Xã, Cộng Sản đã và đang tiến hành, đó là mưa dầm thấm đất, dù hư cấu sai lầm nhưng cứ nói, cứ len lỏi tuyên truyền thì ngưòi ta sẽ coi như sự thật.  .. Họ vẫn nỗ lực bênh vực vá víu chế độ chính trị mà họ từng sống từng phục vụ, tâng bốc đánh bóng, gỡ tội cho các nhân vật độc tài chính trị của phe họ. Sự man trá vô liêm sỉ này đều đang được cả hai phe, phe phỉ CSVN đang cầm quyền và phe chống cộng thi hành và hành xử như nhau. Một thủ đoạn xí xóa tội ác cho Hồ cho Diệm, cho các chế độ chính trị bất nhân, và nhất là dã tâm tuân phục hóa, đồng hóa ngưòi dân, đồng hóa đất nước vào với đảng phái, chế độ chính trị.) Muốn nói gì thì nói, vẫn cứ tìm đủ mọi cách để bênh vực nhân vật chính trị , chế độ chính trị của phe mình.. Vô liêm sỉ trơ trẽn đến cực độ như Lữ Phương, nói qua nói lại để rồi kết luận Hồ Chí Minh là “Anh Hùng Dân Tộc”.. Cũng như vậy, những kẻ có gốc tích ăn ở miền Nam, tự nhận đấu tranh cho lẽ phải, sự thật, cho dân chủ tự do v.v  cũng lập luận qua lại, nới đến nói lui, nói xa nói gần rồi cũng chỉ để kết luận là Diệm có công, có đức tài ba v.v và thậm chí cũng là “Anh Hùng Dân Tộc”bất chấp sử liệu bằng chứng quốc nội, quốc tế, bất chấp nhân chứng lịch sử trong ngoài. 
Tồi bại hơn những kẻ chủ động những trò bịp bợm này, chính lại là những kẻ  “hiểu biết” đang câm miệng làm lơ trưóc những đồi bại này. Dĩ nhiên do nhiều lý do, nhưng lý do chúng ta thường được nghe một cách trịnh trọng là “Có những sự thật chưa nên nói” .. Đồi bại ở chỗ Sự thật thì chưa nên nói, nhưng hư cấu bịp bợm dối trá, lừa đảo ... thì cứ vỗ tay để cho tiến hành!!!Tôi lên án những kẻ gian manh lừa bịp do kém cỏi trí tuệ nhận thức, thì Tôi lại càng khinh bỉ những kẻ trịnh trọng đồng lõa bằng im lặng.Trong phòng kín trao đổi riêng tư họ đều thở dài chép miệng khi phải đọc những “sử liệu khoa học hùng hồn”.Nhưng bước ra công chúng, họ im lặng đồng lõa, mặc nhiên để những thế hệ đi sau coi những bịp bợm gian trá hư cấu này là “chứng sử” với luận cứ rất đểu cáng tồi bại là “có những sự thật chưa nên nói”... “Nói dối nhưng có lợi cho đại cuộc dân tộc” (sic). Hồ Chí Minh, Mao, Stalin, những tên gian hùng, bạo chúa đều cũng từng lập luận như vậy. 
Mà thật ra, việc chính là phải làm sao bênh vực bảo vệ vị thế DÂN CHỦ của NGƯÒI DÂN VIỆT NAM, vị thế làm chủ và nhân phẩm của họ. Vì vậy, câu hỏi then chốt của những kẻ nếu thật sự có tính thần dân chủ tự do độc lập tư duy, phải hỏi là -những chế độ chính trị, cá nhân chính trị, đảng phái chính trị mà họ đang “nỗ lực” bênh vực, đã thực hiện những tiêu chí tự do dân chủ, xây dựng chính nghĩa “độc lập tự do dân chủ”  đến đâu và như thế nào; thực tâm của họ, động lực của họ có thật sự là vì tiêu chí Tự Do Dân Chủ hay không? Cái tiêu chí đó đã có  được thực hiện chưa? Ngưòi dân Việt đã có được tôn trọng đúng với vị thế dân chủ và nhân phẩm dân quyền của họ trong suốt nửa thế kỷ qua hay không? Đó mới chính là câu hỏi của những ngưòi Việt Nam phải hỏi, chứ không phải là đến bây giờ vẫn xoay vần những câu hỏi, cùng với những lý cớ viện dẫn... để bênh vực chống đỡ cho một hai cá nhân chính trí, hay thể chế chính trị của phe mình.

Tất cả chúng ta nếu thật sự có liêm sỉ và thật sự lương thiện, thì phải bênh vực và chống đỡ cho giá trị Tự do dân chủ của chúng ta, của cả xã hội và dân tộc Việt Nam chúng ta, của nhân loại đang xây dựng. Bởi đây mới đích thực là khát vọng của tất cả chúng ta, là mục tiêu giá trị đuờng dài của nhân loại và của chúng ta, giá trị đích thực đã khiến chúng ta, bao thế hệ trưóc, đã tin vào lý tưởng này, đã bị lừa bịp qua cửa miệng của Hồ, của Diệm, 
để rồi hy sinh thân xác, hạnh phúc cá nhân, khiến hàng triệu ngưòi Việt Nam đã  nằm xuống, hơn nửa thế kỷ biết bao hy sinh mất mát, nhưng mục tiêu dân chủ  tự do, dân quyền nhân quyền vẫn xa vời mù mờ- vận nưóc vẫn cheo leo vô định.  Và chính vì bị lừa bịp như vậy mà hôm nay chúng ta vẫn phải đang miệt mài vì mục tiêu tự do dân chủ, dân quyền nhân quyền này, chứ không phải tất cả những hy sinh mất mát hơn nửa thế kỷ qua là vì một hai cá nhân lãnh tụ, hay vì một đảng phái hay chế độ chính trị nào của hiện tại hay quá khứ. Tất cả những nhân vật, đảng phái, chế độ v.v chỉ là phương tiện của chúng ta, của xã hội con ngưòi, không phải mục tiêu cứu cánh của chúng ta, của xã  hội dân tộc chúng ta.

Hơn nửa thế kỷ qua, trên dưói 5 triệu ngưòi đã chết. Những ai trách nhiệm về những cái chết này? Khát vọng tự do dân chủ hạnh phúc của cả dân tộc, của 5 triệu ngưòi này, đứa nào trách nhiệm? Chế độ chính trị, những thằng lãnh tụ đảng phái đã tôn trọng Dân Chủ và thực thi tự do dân chủ hay không? 

Vậy cần phải lương thiện và công chính với giá trị độc lập tự do dân chủ, với mục tiêu của dân tộc theo đuổi, của nhân loại đã mở ra. Đừng dùng những ý niệm và giá trị này, mục tiêu này của cả dân tộc làm phương tiện tranh đoạt quyền lực bè phái, bênh vực đánh bóng bè phái.. Đó chỉ là những hành xử bán khai, đi từ não trạng băng hoại, bất lương vô liêm sỉ và bất nhân mà thôi...Không còn gì nghịch lý và man rợ cho bằng những kẻ đang nhân danh mục tiêu (cứu cánh) DÂN CHỦ TỰ DO DÂN QUYỀN NHÂN QUYỀN, nhưng KHÔNG HỀ THỂ HIỆN, CHỨNG TỎ HÀNH XỬ TỰ DO DÂN CHỦ - TÔN TRỌNG DÂN CHỦ DÂN QUYỀN, NHÂN QUYỀN, mà ngược lại khăng khăng bảo vệ phương tiện là chế độ, đảng phái, nhân sự chính trị đã hoặc đang vi phạm TỰ DO DÂN CHỦ, vi phạm DÂN QUYỀN và NHÂN QUYỀN.  Cứu cánh (mục tiêu tư do, dân chủ) biến thành phương tiện, phương tiện(đảng phái chính trị, chế độ chính trị) trở thành cứu cánh. 
Thế mà ở thế kỷ 20 và 21, một bọn khoa bảng, nhưng tối dạ lạc hậu, chỉ tập trung xu phụ trung thành với hệ thống chế độ chính trị, lãnh tụ chính trị, coi trọng chế độ, lãnh tụ, và khinh thường an nguy hạnh phúc, sinh mạng ngưòi dân.

-Bi kịch của chúng ta là khi nhân loại đã chuyển hưóng hơn trăm năm qua, nhận thức về giá trị Con Ngưòi cao hơn, ngưòi ta đã kiến tạo một mô thức xã hội hàng ngang để sinh hoạt từ căn bản cá nhân đến cộng đồng tập thể, hàng ngang (bình đẳng) trong tư duy, trong hành xử giữa cá nhân, trong nguyên lý nguyên tắc điều hành các định chế xã hội; căn bản mô thức hàng ngang trong định vị giá trị, và thể hiện quyền cai trị của con người, của vị thế công dân trên hệ thống tổ chức định chế chính trị, đó là dân chủ, dân trí. Ngược lại ngưòi Việt Nam chúng ta, từ trong ra ngoài, trong não trạng của họ vẫn đặt nền tảng tư duy hàng dọc, hình chóp nón hay tự tháp. Giá trị hàng dọc này vẫn bao phủ kềm chặt não trạng trí tuệ của họ. Trong tương quan cá nhân thì hành xử thượng đội hạ đạp, xu nịnh kẻ quyền thế chức vị, khinh khi ngưòi bất hạnh hay kém vị thế.  Đối trọng xã hội thì đầy tính gia trưởng phong kiến, trọng quyển lực áp chế, thượng tôn định chế quyền lực chính trị, nhân vật chính trị. Lúc nào cũng nghĩ đến giải pháp cường lực, áp chế. 

Kẻ chưa có thực quyền, thực lực, thì đánh lén, bôi nhọ , chụp mũ, thủ đoạn vặt vãnh hù dọa để áp chế lấn át trong đối trọng tương quan, chứ không phát huy tranh luận thuyết phục bằng sức mạnh trí tuệ bằng chứng. Kẻ có quyền lực rồi thì đương nhiên không bao giờ ngưng nghỉ ra oai, lúc nào cũng dùng bạo quyền trấn áp khủng bố. Bất cứ ai, từ kẻ trong giói quyền lực chính trị, giới tài lực, giới khoa bảng, cho đến giới công nhân, bình dân dại chúng v.v ai ai cũng chực chờ cơ hội, nhỏ hay to, để khệnh khạng có dịp bưóc lên trên “đè” ngưòi khác mới thỏa mãn, thoả chí. Cái hình chóp nón hàng dọc của kỷ nguyên khi nhân loại còn bán khai nó vẫn là nền tảng giá trị hành xử trong nội tâm của ngưòi Việt Nam hôm nay, dù ở trong hay ngoài nưóc, dù đang sống trong mội trưòng hàng ngang ở phương Tây, hay hàng dọc ở Việt Nam... cũng chưa thay đổi!!!

Cho nên khi cùng khổ, gặp vấn nạn, thay vì đi tìm giải pháp từ mình, đi từ xác định giá trị nhân phẩm, dân quyền của mình, của đồng loại bình đẳng chung quanh, để hợp lại giải quyết, thì ngưòi Việt Nam hôm nay vẫn cứ thì thụp, ẩn náu với cái ước mơ ngàn năm trước, là vẫn khát khao một “minh quân thánh chúa” ở đâu đó, giáng trần và có vị thế “chính thống” đến cứu vớt, ban phát giải thoát cho họ. Họ thụt lùi trí tuệ đến nỗi mở ra những câu than thở cửa miệng nghe thật thảm hại như “giá bác Hồ còn sống”.. “giá như cụ Diệm đừng bị lật đổ”... hoặc kinh hoàng hơn nữa là “chúng ta cần có một Quang Trung của thế kỷ 21” ..”một Hưng Đạo của thời đại“... và khốn nạn thay, chính bọn có ăn học khoa bảng lại hướng dẫn ngưòi dân ước mơ “chúng ta cần một Gọc Ba Chép, một Ha Ven, một Den Xin”  v.v.. Những giấc mơ “vong thân” nô lệ này, dù bao phủ ước vọng về hạnh phúc, nhưng hạnh phúc được ban phát trao tặng, đợi chờ nhờ gửi, chứ không phải một hạnh phúc của chính mình, đi từ  tự chủ kiến tạo của bản lãnh chủ động tự tin vào chính mình, từ giá trị  quyền lực trách nhiệm cá nhân của mình và của mọi người chung quanh.

Tất cả phản ảnh một não trạng không chỉ không phát triển mà tụt hậu đến thảm hại. Tư duy Việt Nam hôm nay thật sự là một bi kịch. Một bi kịch của cả một dân tộc chỉ hướng ngoại trông chờ; và từ thành phần khoa bảng đến bình dân đại chúng chỉ dạy nhau một “triết lý an phận”  như “khôn cũng chết dại cũng chết, biết mới sống”.. Họ dạy nhau an phận nhẫn nhịn, dạy nhau thủ đoạn vặt vãnh ích kỷ đoạt lợi vô tâm.. và gọi đó là “biết”, gọi đó là sống!!! Giấc mơ của cả dân tộc chỉ được gói vào “cơm no áo ấm” và “cơm áo gạo tiền”..cả một xã hội sống trong nền "văn hóa xin cho, chờ đợi ban phát" và  dưói một thể chế tham nhũng, tham nhũng từ thượng tầng cai trị đảng CSVN đến các ban ngành bộ sở và giữa quần chúng với nhau.. "Phi Tham Nhũng Bất Thành Sự" ... và thủ đoạn mánh lới trở thành phẩm chất của con ngưòi xã hội Việt nam.

Trong khi những xã hội từng lạc hậu, từng bị nô lệ thực dân khác, như Hàn, Nhật, Mã Lai, Đài Loan v.v sau thời điểm 1945 của cao trào thế giới giải-thực (giải phóng khỏi thực dân) ..tất cả đã thức tỉnh giấc ngủ ngu muội say sưa  trong tự ái chủ nghĩa dân tộc quốc gia, cơm no áo ấm.. và đã vượt qua và  đi lên..  Chỉ còn những xã hội lạc hậu ngủ vùi trong đó có Việt Nam, tiếp tục dạy nhau ngu ngục “cơm no áo ấm”, “quốc gia dân tộc” dù cả dân tộc hai miền Nam Bắc đã liên tục là nạn nhân của chiêu bài. 
Để hóa giải bi kịch này, chỉ có một giải pháp duy nhất là nâng cao tầm nhận thức của ngưòi dân. Đó chính là Dân Trí.

Dân Trí là tất cà sự hiểu biết nhận thức của ngưòi dân về mọi mặt trong sự tương quan đối trọng giữa bản thân cá nhân và xã hội. Nhưng nền tảng chính vẫn là đi từ lương năng con người, lương năng nhận thức  và định vị giá trị cá nhân của mình trong bình đẳng tương quan, đối trọng với xã hội - và biết sử dụng giá trị của mình để điều hành và đối kháng định chế nhà nưóc. Trong đó bao gồm tầm nhận định chính xác các định chế chính trị. Nhà nưóc chính trị chỉ là phương tiện của xã hội, được con ngưòi (công dân) chọn lựa để phục vụ cho mục tiêu (cứu cánh) nâng cao phẩm giá, hạnh phúc Con Ngưòi.  Khi có dân trí, Con Ngưòi trong vị thế Công Dân, tự nhiên xác định được vị trí bình đẳng của mình với mọi  cá nhân, tập thể trong một mô thức xã hội hàng ngang, để tương quan hành xử cộng hưởng, cạnh tranh, đối  trọng và cùng nhau sinh tồn (cộng tồn) thăng tiến.

Một cao trào VẬN ĐỘNG DÂN TRÍ phải được tiến hành từ mỗi một ngưòi dân, tận dụng tất cả mọi phương tiện còn lại không bị khống chế bởi nhà nưóc Việt Cộng để thúc đẩy nhau suy nghĩ và trưởng thành trong nhận thức giá trị tự thân. Thí dụ như thực hiện thông tin quần chúng qua mạng liên-tín (internet). Tất cả đều nằm trong khả năng bén nhậy sáng tạo của mỗi con ngưòi Việt Nam, và khả năng sáng tạo giải pháp dân chủ chỉ có khi cá nhân có nhận thức giá trị tự thân.. Khi trân quí nhân quyền dân quyền, ngưòi ta sẽ có đủ năng lực sáng tạo để phát huy và gìn giữ nó.



 

...Tài -Đức
Người tài khó kiếm ai ơi!
Không hình không ảnh độc tài đã qua
Người đức một tấm chân tình
Mong cho đất nước tự do rạng ngời
Chọn phải đúng chổ đúng nơi
Không nên chọn ẩu phí hoài công ta
Việt Nam dân chủ xa vời...
Bất tài trôi nổi như bèo trôi sông
Xã hội chủ nghĩa tận cùng
Đua dân đưa nước vào vòng điêu linh
Độc tài đảng trị nước ta
Tự do ngôn luận người dân chẳng còn
Dòng đời tiến hóa không ngừng
Tự do dân chủ thóat vòng lầm than
Người dân phê phán chính quyền
Đa nguyên xã hội nước nhà bình yên.

KN

Donnerstag, 25. Mai 2017

Chỉ mong được bất ổn như thế



Trong một xã hội dân chủ, thì người dân được thực thi đầy đủ các quyền tự do căn bản. Họ có quyền bày tỏ quan điểm và nguyện vọng của mình với nhà nước. Những cuộc tuần hành là hình thức biểu lộ nhanh nhất của người dân. Ở đó ý chí của đông đảo mọi người được bày tỏ một cách trực tiếp đến chính phủ. Đó cũng là sự lựa chọn cuối cùng khi mà các hình thức kiến nghị khác không được lắng nghe.
Khi thấy người dân ở các nước dân chủ xuống đường để bày tỏ quan điểm của mình, thì đảng Cộng Sản Việt Nam lý luận rằng: “Như thế là bất ổn chính trị, là gây rối trật tự công cộng, người dân không được làm vậy. Việt Nam cần ổn định để phát triển đất nước”. Họ không cho người dân biểu tình hay tập trung đông người với lý do sợ bất ổn chính trị. Là những người dân, chúng ta sẽ nói rằng: “Thà làm một con người với đầy đủ các quyền tự do, dân chủ chứ không làm nô lệ cho chính quyền độc tài”.
Nhà nước Cộng Sản thì cho rằng làm vậy là bất ổn chính trị. Người dân chúng tôi thì chỉ mong được bất ổn như thế. Để đất nước Việt Nam có được tự do, dân chủ và nhân quyền.
Chỉ mong được bất ổn như thế
Hẳn mọi người đã nghe nhiều đến câu danh ngôn: “Thà đau khổ vì yêu còn hơn sống mà không có tình yêu!”. Câu này muốn diễn đạt một ý nghĩa rằng khi yêu thì người ta thường đau khổ, và đó là một tâm lý phổ biến. Đây là mặt trái của tình yêu, giống như hai trạng thái âm – dương của một bản thể. Những người có cái nhìn tiêu cực thì vin vào điều này để rồi quyết định không yêu nữa, họ cho rằng tình yêu chỉ mang lại khổ đau cho con người. Nhưng loài người nói chung thì đều chọn tình yêu, vì rằng thà được yêu mà đau khổ còn hơn sống mà không có tình yêu. Thà sống trọn vẹn với những tình cảm của mình, được tự mình quyết định hạnh phúc, còn hơn phải sống vô cảm.
Khi thấy người dân ở các nước dân chủ xuống đường để bày tỏ quan điểm của mình, thì đảng Cộng Sản Việt Nam lý luận rằng: “Như thế là bất ổn chính trị, là gây rối trật tự công cộng, người dân không được làm vậy. Việt Nam cần ổn định để phát triển đất nước”. Họ không cho người dân biểu tình hay tập trung đông người với lý do sợ bất ổn chính trị. Là những người dân, chúng ta sẽ nói rằng: “Thà làm một con người với đầy đủ các quyền tự do, dân chủ chứ không làm nô lệ cho chính quyền độc tài”.
Để rồi đàn áp và vi phạm nhân quyền
Với kiểu lý luận khôi hài như vậy, nhà cầm quyền Việt Nam tiến hành đàn áp những người yêu nước. Họ bắt giam các nhà Dân chủ, những người dân oan đi khiếu kiện. Họ đàn áp những người dân xuống đường để bày tỏ lòng yêu nước trước việc biển đảo Việt Nam bị Trung cộng xâm lược. Nếu không có những hành vi sai trái và bất công của chính quyền thì làm sao có phát sinh khiếu kiện của người dân? Đó là hành động chính đáng của công dân để đòi hỏi luật pháp bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình. Vậy thì tại sao chính quyền lại ngăn cấm và bắt bớ, sách nhiễu? Đó chính là hành động đàn áp dân chủ và vi phạm nhân quyền. Nhiều người dân đã bị bắt giam, phải chịu những bản án bất công bởi lối lý luận thiếu lôgic trên của nhà nước.
Chỉ để biện minh cho độc tài
Dĩ nhiên trong thời đại của tự do dân chủ ngày nay, những hành động vi phạm nhân quyền từ phía nhà nước không thể được ai chấp nhận. Kiểu lý luận bịp bợm đó chỉ để biện minh cho một chế độ độc tài, một chế độ đã quen kiểu hành xử phi lý đối với người dân của mình. Sự ổn định thì bất kỳ quốc gia nào cũng cần để phát triển, mà quan trọng hơn cả là để đảm bảo cuộc sống hạnh phúc của con người. Nhưng ổn định như thế nào thì mới là vấn đề cần phải bàn. Sự ổn định được đảm bảo bằng ý nguyện của nhân dân là điều kiện lý tưởng cho một xã hội tốt đẹp, công bằng và dân chủ. Đó là sự ổn định cần thiết mà chúng ta cần hướng tới, nó được quyết định bằng ý chí người dân. Sự ổn định được đảm bảo bằng họng súng và bộ máy đàn áp nhà nước thì không một quốc gia nào mong muốn cả. Có chăng chỉ có những chế độ độc tài là yêu thích kiểu ổn định đó mà thôi.
Chỉ mong được bất ổn như thế
Trong một xã hội dân chủ, thì người dân được thực thi đầy đủ các quyền tự do căn bản. Họ có quyền bày tỏ quan điểm và nguyện vọng của mình với nhà nước. Những cuộc tuần hành là hình thức biểu lộ nhanh nhất của người dân. Ở đó ý chí của đông đảo mọi người được bày tỏ một cách trực tiếp đến chính phủ. Đó cũng là sự lựa chọn cuối cùng khi mà các hình thức kiến nghị khác không được lắng nghe.
Nhà nước Cộng Sản thì cho rằng làm vậy là bất ổn chính trị. Người dân chúng tôi thì chỉ mong được bất ổn như thế. Để đất nước Việt Nam có được tự do, dân chủ và nhân quyền.
Đăng bởi Minh Văn

Yêu... nước...
Yêu Bác và yêu đảng
Sẽ trở thành giàu to...
Nhờ chế độ độc tài
Tham nhũng tha hồ vét...
Hãy cố gắng nâng bi
Bạn vàng sẽ khen thưởng...
Mặc kệ tình đất nước
Biển đảo có hay không...
Trước sau ta là một
Đồng chủ trương thống nhất...
Kệ dân tình đói khổ
Giàu sang thuộc về ta...
Đủ tiền ta hạ cánh
An toàn sang trời Tây...
Thây kệ đám dân đen
Có miệng không dám nói...
KN

Mittwoch, 24. Mai 2017

Chế độ độc tài


" Tương lai là một cơ hội của của Vũ trụ quan "Không gian" Vũ trụ quan là sự tự do của chúng ta."


(Minh Văn)

Chế độ độc tài
Đặc điểm chung dễ nhận thấy nhất ở các chế độ độc tài là:
- - Do một đảng phái duy nhất cầm quyền;
- - Quản lý đất nước bằng hình thức độc tài, bạo lực mà không phải là nhà nước pháp quyền;
- - Các quyền tự do căn bản của con người bị cấm đoán hoặc bị hạn chế và không được thực thi trong thực tế đời sống xã hội;
- - Thông tin sự thật bị bưng bít, chỉ có hệ thống truyền thông tuyên truyền của nhà nước được phép hoạt động;
- - Nạn lạm quyền và tham nhũng hoành hành vì không có đời sống chính trị dân chủ, minh bạch.
Với tất cả bản chất trên thì chúng ta có thể nói, chế độ độc tài là kẻ thù của tự do – dân chủ, kẻ thù của nhân dân; kẻ thù của tất cả những giá trị nhân văn tốt đẹp mà con người cần hướng tới. Bằng việc cấm đoán và hạn chế các quyền tự do căn bản của con người, thì nhà nước độc tài đã ngăn cản những giá trị tốt đẹp có thể nở hoa kết trái. Trong chế độ độc tài thì pháp luật không được tôn trọng, và là công cụ để đàn áp nhân dân của nhà cầm quyền. Pháp luật đó là do nhà nước độc tài làm ra, không phải là ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Những kẻ thống trị với tất cả công cụ quyền lực trong tay đã bưng bít mọi tiếng nói đòi chân lý của người dân, và sẵn sàng đàn áp tất cả những cuộc biểu tình phản đối nhà cầm quyền. Không có một xã hội dân sự tồn tại, hay tồn tại đúng nghĩa thì người dân sẽ bị tước đi tất cả sức mạnh và quyền lực chính đáng của mình. Đỉnh cao của các chế độ độc tài là nhà nước độc tài toàn trị, đây là kiểu nhà nước có bộ máy chính quyền được tổ chức hoàn thiện nhất để phục vụ cho việc trấn áp và kìm kẹp, cũng như lừa dối người dân. Khác với các nhà nước độc tài quân phiệt (chỉ dựa vào sức mạnh quân đội để cầm quyền) thì chế độ độc tài toàn trị, giống như tên gọi của nó, đã cai trị đất nước bằng tất cả các phương tiện quyền lực. Không những chỉ bằng sức mạnh của quân đội, công an, toà án mà còn thâu tóm toàn bộ xã hội dân sự để tước đi mọi thứ vũ khí của người dân. Và do vậy mà người dân bị cô lập, không thể đoàn kết được để đấu tranh đòi quyền lợi cho mình và xoá bỏ những bất công.


Die Regierung Diktatur von Vietnam Lãnh đạo độc tài Việt Nam Nhiều người chỉ có nhìn, nghe và nói... Nhưng rất tiếc, họ có cái nhìn quá xấu, Nghe thì ít nhưng nói thì rất nhiều. Viele Menschen nur sehen, hören und sprechen ... Aber leider sehen sie so schlecht, Hören sie zu venig aber Sagen sie zu viele. “Tôi phản đối mọi hình thức độc tài, vì tất cả các chế độ độc tài đều là kẻ thù của tự do – dân chủ, kẻ thù của nhân dân” -Ich bin gegen alle Formen der Diktatur, wie alle Diktaturen die Feinde der Freiheit sind - Demokratie, die Feinde des Volkes.


KN

Freitag, 19. Mai 2017

Khi chính ngày sinh tháng đẻ của mình còn giả tạo được thì đúng là một gian hùng

Khi chính ngày sinh tháng đẻ của mình còn giả tạo được thì đúng là một gian hùng

„Hồ Chí Minh“ war ursprünglich nur einer seiner zahlreichen Decknamen. Er gab sich zu dieser Zeit als chinesischer Journalist aus, behielt den Namen aber später. Es wird vermutet, dass ihm bis zu 50 Pseudonyme zugerechnet werden können.
- Hồ Chí Minh đã có rất nhiều tên có thể nói có tới 50 tên giả, trong thời gian này ông ta cho là ký giã của Trung Quốc và sau đó nhận được cái tên sau như sau đây.
Nguyen Sinh Cung wurde vermutlich am 19. Mai 1890 in dem kleinen Dorf Kim Lien in der mittelvietnamesischen Provinz Nghe An geboren. Hồ Chí Minh gab später im Laufe seines Lebens immer wieder verschiedene Geburtsdaten an, die von 1894 bis 1903 reichen. Das Jahr 1890 gilt mittlerweile als die „offizielle“ Version, die zwar noch immer von einigen Forschern angezweifelt wird, aber aufgrund einiger bekannter Ereignisse aus der Kindheit als plausibel angesehen werden kann.
Auch über den Tag seiner Geburt besteht in der Forschung Uneinigkeit. Es ist gut möglich, dass der 19. Mai absichtlich mit jenem Datum zusammenfällt, an dem 1941 der Việt Minh gegründet wurde. Da im ländlichen Vietnam zudem oft keine Aufzeichnungen über Geburtstage gemacht wurden, ist ebenso denkbar, dass Hồ Chí Minh seinen Geburtstag selbst nicht kannte.[2]
-Nguyễn Sinh Cung được đoán là sinh ngày 19.05.1890 ở làng nhỏ Kim Liên thuộc thành phố Nghệ An. Hồ Chí Minh sau đó cho nhiều ngày sinh của mình 1894 và 1903. Năm 1890 đã có rất nhiều sử gia nghi ngờ về ngày sinh này, vì có nhiều người đã sống trong thời gian này lúc thiếu thời "trẻ con"
Cụng có thể ông ta lấy ngày đó vì là ngày thành lập Việt Minh 1941. Trong thời gian này ở VN không có thói quen tổ chức ngày sinh nhật, nhưng cũng có thể rằng, ông ta không thể tự cho ngày sinh nhật của mình.[2] Vậy ai cho?
1925 und 1926 organisierte er politischen Unterricht für vietnamesische Jugendliche an der Whampoa-Militärakademie in Kanton, die 1924 von der Kuomintang eröffnet worden war. Er gab auch selbst Kurse in sozialistischer Politik für die jungen Vietnamesen, die wenige Jahre später an der Begründung der kommunistischen Bewegung in Vietnam mitwirkten.
Im Oktober 1926 heiratete er im Alter von 36 Jahren eine katholische Chinesin, die 21-jährige Hebamme Tăng Tuyết Minh. Sie lebten ein halbes Jahr zusammen, bis er im April 1927 China verließ.[11] Die Ehe wurde später von den vietnamesischen Kommunisten geheim gehalten, da sie nur schlecht in das idealisierte Bild ihres „Vaters der Nation“ passte.
-1925-1926 ông ta tổ chức khóa học tập chính trị cho thanh niên Việt Nam ở Whampoa. trường huấn luyện quân sự ở Kanton "Mãn Châu",vào năm 1924 được Kuornintang khai mạc khánh thành. Ông ta" Hồ..." cũng tự tham gia khóa học chính trị xã hội chủ nghĩa với các thành viên Việt Nam, vài năm sau đó thành lập tổ chức đảng cộng sản VN hành động.
Tháng mười 1926 với tuổi 36 ông "Hồ..." lấy vợ một người Thiên chúa giáo Trung Hoa 21 tuổi nghề nghiệp đở đẻ tên là Tăng Tuyết Minh. Họ đã sống chung với nhau nữa năm và tháng 4- 1927 ông ta rời Trung Hoa. [11] Đời sống vợ chồng của ông ta đã được đảng cộng sản Việt Nam giữ bí mật, Nếu sự thật được phơi bày thì ông "Hồ..." sẽ không còn là cha già dân tộc được nữa. Và đảng cộng sản sẽ không còn đứng vững để lảnh đạo lý tưởng đôc tài Xã hội chủ nghĩa.
Còn rất nhiều tin tức quan trọng mình không dịch được nữa. Mệt quá

https://de.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%93_Ch%C3%AD_Minh#cite_note-Duiker-2



Ngày sinh của bác
Ngày sinh tháng đẻ còn không biết
Bác đây quả thật quá gian hùng
Điền địa cải cách bao người chết
Vài giọt nước mắt thế là xong
Bác ơi tim bác làm sao thế
Bán cả non sông uổng kiếp người
Lấy súng lương thực đánh anh em
Biển đảo dâng hết phường thảo khấu
Ngư trường dân ta bị nhiễm độc    "cấm đoán"
Giàn khoan Trung Quốc cắm biển đông
Đảng cộng của bác toàn cướp đất
Nhân dân nô lệ sống tôi đòi. "bán thân"
KN

Donnerstag, 18. Mai 2017

Nhất định phải đòi lại Hoàng Sa

Nhất định phải đòi lại Hoàng Sa


Hoàng Sa là của Việt Nam. Trung Quốc đã dùng vũ lực để chiếm Hoàng Sa và nhất định chúng ta phải đòi lại. Đời tôi, đời các bạn chưa đòi được thì con cháu chúng ta sẽ tiếp tục đòi lại', Phó thủ tướng Vũ Đức Đam đã khẳng định như vậy tại cuộc đối thoại với các nhà khoa học Việt Nam vào sáng 17.5.

Hoàng Sa là của Việt Nam. Trung Quốc đã dùng vũ lực để chiếm Hoàng Sa và nhất định chúng ta phải đòi lại. Đời tôi, đời các bạn chưa đòi được thì con cháu chúng ta sẽ tiếp tục đòi lại”, Phó thủ tướng Vũ Đức Đam đã khẳng định như vậy tại cuộc đối thoại với các nhà khoa học Việt Nam vào sáng 17.5.

Nhất định phải đòi lại Hoàng Sa

Phó thủ tướng Vũ Đức Đam tại cuộc đối thoại - Ảnh: Ngọc Thắng

Mặc dù là buổi đối thoại về khoa học công nghệ, song các nhà khoa học lại dành khá nhiều thời gian đặt câu hỏi cho vấn đề thời sự nóng bỏng: biển Đông. Là nhà khoa học, nhưng đồng thời cũng là chiến sĩ, giảng viên Nguyễn Quốc Định, Học viện Kỹ thuật quân sự, bày tỏ các nhà khoa học có tri thức không thể khoanh tay trước vấn đề của đất nước hiện nay, đặc biệt là vấn đề phức tạp tại biển Đông. “Giới khoa học và trí thức nên làm gì vào lúc này?”, anh Định đặt câu hỏi.
Nhất định phải đòi lại Hoàng Sa - ảnh 2
Chống chủ nghĩa bành trướng
Bây giờ, chúng ta đang sống trong thế giới toàn cầu hóa, những nhà khoa học chúng tôi hiểu rõ, những vấn đề phải đối mặt hiện nay giữa các quốc gia không phụ thuộc vào đường biên giới mà còn là vấn đề của toàn cầu. Là nhà khoa học, điều chúng tôi mong muốn là giữ mối quan hệ tốt với các nhà khoa học ở các nước, chúng tôi chống lại chủ nghĩa bành trướng.
Nhất định phải đòi lại Hoàng Sa - ảnh 3
GS Pierre Darriulat chuyên gia trong lĩnh vực hạt nhân
Phó thủ tướng Vũ Đức Đam cho rằng giới khoa học có thể làm nhiều việc. Cụ thể đối với việc Trung Quốc đem giàn khoan vào Việt Nam, các nhà khoa học là người có tri thức, có thể tìm hiểu, nghiên cứu vấn đề chia sẻ với người thân, người xung quanh mình, bạn bè nghiên cứu, các tổ chức khoa học quốc tế hiểu về luật pháp quốc tế.
Trước tình hình phức tạp ở biển Đông, một nhà khoa học trẻ đến từ Đại học Khoa học tự nhiên (ĐH Quốc gia TP.HCM) băn khoăn: “Thực lực của Việt Nam thế nào? Chúng ta có đủ khả năng đương đầu giải quyết tình hình thực tế?”. Phó thủ tướng nói: “Sự kiện lần này không phải là sự kiện duy nhất trong quá khứ mà ngay cả tương lai, đất nước chúng ta luôn phải đương đầu với những thách thức như vậy. Chúng ta đã đứng vững như bây giờ, nhất định chúng ta sẽ giữ vững và bảo vệ được độc lập, chủ quyền trong tương lai. Tiềm lực còn rất yếu, trách nhiệm của chúng ta, nhà khoa học phải làm tốt hơn, nhà quản lý phải làm tốt hơn, có như vậy dân tộc mới mạnh”.
“Vàng chưa phải là quý nhất”
Trước câu hỏi khó của một nhà khoa học: “Phó thủ tướng đánh giá như thế nào về cái được gọi là “16 chữ vàng” trong quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc? Việt Nam có nên xem xét thay đổi mối quan hệ đối ngoại giữa Việt Nam và Trung Quốc?”. Không ngần ngại, Phó thủ tướng bày tỏ: Phía Việt Nam luôn thực tâm, chân thành và nỗ lực hết sức để phấn đấu xây dựng mối quan hệ dựa trên phương châm “16 chữ vàng”. Và Việt Nam mong phía Trung Quốc cũng như vậy. “Các bạn là nhà khoa học chắc biết hơn tôi, mà chẳng cần phải là nhà khoa học đâu, người dân cũng biết, vàng chưa phải là quý nhất, kim cương còn quý hơn vàng. Nhưng có thứ còn quý hơn cả kim cương nữa. Bác Hồ đã dạy 4 chữ độc lập, tự do. Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Vàng có kim cương quý hơn và có thể có nhiều thứ quý hơn kim cương. Nhưng trên hết, không có thứ gì quý bằng độc lập, tự do”
Thu Hằng

http://thanhnien.vn/thoi-su/nhat-dinh-phai-doi-lai-hoang-sa-404182.html
Môt câu nói khẳng định đúng cách đây 3 năm, do PTT Vũ Đức Đam của đảng độc tài cộng sản Việt Nam nói. Đẻ tuyên dương chào đón ngày sinh ông hồ hòng ru ngủ dân ta về sự kiện đất đai, biển đảo. Hầu bảo vệ 16 vàng 4 tốt mà  tư tưởng ông Hồ... cùng với đảng của ông ta luôn ghi nhớ là đã khẳng định nhượng đất đai biển đảo cho Trung quốc với công hàm Phạm Văn Đồng công nhân HS-TS thuộc về Trung Quốc vào năm 1958. Để lấy súng đạn, lương thực của Trung Quốc đánh chiếm miền Nam cho Quốc tế cộng sản. 
Một câu nói nhượng đất đai , biển đảo quá rỏ ràng của đảng độc tài cộng sản việt Nam.
Đời này của các ông không dám đòi, mà còn dám mở miệng nói để đời sau con cháu đòi. Không còn cái từ nào hơn chữ ngu xuẩn và hèn mọp người đến thế hơn được nữa. Khi người dân lên tiếng thì bắt bỏ tù, vì dám  lợi dụng tư do dân chủ của đảng cộng sản chống phá nhà nước. Một chế độ đại thối nát phục vụ cho Hán triều.
Những câu nói nhu nhược của một chính quyền tay sai ru ngủ một dân tộc cho thế lực bành trướng "Đại Hán"

“Chúng ta không liên minh quân sự với ai, không cho bất kỳ nước nào đặt căn cứ quân sự tại Việt Nam. Không liên minh với nước nào để chống lại một nước thứ ba”
Về quan hệ với Trung Quốc, ông Đam phân tích: “Chính sách đối ngoại của chúng ta rất rõ. Phương châm quan hệ giữa hai nước vẫn theo 4 tốt, 16 chữ vàng".
“Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam. Trung Quốc đã dùng vũ lực chiếm Hoàng Sa và chúng ta nhất định phải đòi lại. Đời tôi và các bạn chưa đòi được thì đời con cháu chúng ta sẽ đòi được theo đúng luật pháp quốc tế…”.
"Đời tôi và đời các bạn không đời được". Đến đời con cháu cũng nói câu này thì không bao giờ có đời con cháu của nước Việt Nam. Mà chỉ có đời con cháu nói câu "Ngộ ái Nị"
Bài này đăng trên GIADINH:NET:VN đã bị xóa


Montag, 15. Mai 2017

QUYỀN LỢI QUỐC GIA

QUYỀN LỢI QUỐC GIA
Ý nghĩ cho rằng các quốc gia có một loại QUYỀN LỢI QUỐC GIA CỘNG HƯỞNG hoặc ngay cả một "vận mệnh thiết yếu" cũng không thực tế trong bất kỳ ý nghĩa chặt chẽ nào. Chẳng có cái "quyền lợi quốc gia" nào cả, bởi vì chỉ có những cá nhân là có những quyền lợi thật sự- Cái gọi là "quyền lợi quốc gia" chỉ là một trùu tượng siêu thực, một bóng ma. Quyền lợi quốc gia được đặt ra bởi một nhóm người gồm những cá nhân nhất định họ hành xử trong những điều họ nhận thấy vì quyền lợi của riêng họ. Những cá nhân này- những kẻ nắm quyền cai trị- có thể khác nhau nhiều theo ý thức hệ và cá tính, và tuy vậy tất cả họ đều có chung một động lực, và đó là sự liên tục và kéo dài quyền lực của họ mà thôi.
(The idea that nations have some sort of collective "national interest," or even a "manifest destiny," is not realistic in any coherent sense. There is no "national interest," because only individuals have real interests: the "national interest" is a floating abstraction, a ghost. American foreign policy is made by people: specific individuals who act in what they regard as their own interests. These individuals – our rulers – may differ greatly in terms of ideology, and personality, and yet they all have one motive in common, and that is the continuation and extension of their own power. Justin Raimondo)
Từ đó chúng ta có thể diễn giải hoặc qui kết theo động lực của một tập thể hay lớn hơn là cả một xã hội rằng nếu muốn thực hiện một quyền lợi mà có ảnh hưởng trực tiếp chung đến MỖI CÁ NHÂN trong tập thể hoặc xã hội đó, thì quyết định hoặc tiến trình quyết định đó phải được tham dự và thực hiện trực tiếp từ mỗi cá nhân đó. Muốn thực hiện được điều này thì không còn phương thức nào ngoài phương thức DÂN CHỦ TRỰC TIẾP ra cả. Vì chỉ có phương thức TRỰC TIẾP, nghĩa là LOẠI BỎ QUYỀN QUYẾT ĐỊNH của một cá nhân hay một nhóm nhỏ cá nhân ĐẠI DIỆN NHÂN DANH TẬP THỂ, mà thực chất chỉ là những CÁ NHÂN hành xử theo quyền lợi cá nhân của họ. Khi tước bỏ được QUYỀN LỰC trong tay một cá nhân hay một nhóm cá nhân thì động lực giữ sự liên tục và nới dài kéo rộng QUYỀN LỰC không còn nữa.
Giải pháp này chỉ được nghĩ đến khi người ta khởi đầu suy nghĩ vượt qua được khung sườn lề lối cũ (thinking out of the box)
Posted by Kunieda Aoi Huynh


Khi quyền lợi cá nhân hay môt nhóm độc đảng tự cho mình là dân chủ đại diện tập thể nhân dân. Thì đó chỉ là một chế độ độc tài toàn trị thôi.
Quyền lợi quốc gia là của chung chứ không phải của một nhóm cầm quyền xây dựng trên tinh thần: Chủ nghĩa dân tộc là do một nhóm cầm quyền "Phát xít hay Độc tài" lập ra. Để xây dựng con người trên một nền mống của quyền lực và bạo tàn... bằng sự sợ hãi mất sự đối kháng đòi hỏi của chính mình mà mỗi con người được hưởng quyền tự do dân chủ... chính đáng của mình.

KN
"Muốn thực hiện được điều này thì không còn phương thức nào ngoài phương thức DÂN CHỦ TRỰC TIẾP ra cả. Vì chỉ có phương thức TRỰC TIẾP, nghĩa là LOẠI BỎ QUYỀN QUYẾT ĐỊNH của một cá nhân hay một nhóm nhỏ cá nhân ĐẠI DIỆN NHÂN DANH TẬP THỂ, mà thực chất chỉ là những CÁ NHÂN hành xử theo quyền lợi cá nhân của họ. Khi tước bỏ được QUYỀN LỰC trong tay một cá nhân hay một nhóm cá nhân thì động lực giữ sự liên tục và nới dài kéo rộng QUYỀN LỰC không còn nữa."



Phát biểu bế mạc của Tổng Bí thư tại Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ chín
14/5/2014 23:7'Gửi bài nàyIn bài này
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu bế mạc Hội nghị. Ảnh: TTXVN
Thưa các đồng chí Trung ương,
Thưa các đồng chí tham dự Hội nghị,
Sau 7 ngày làm việc khẩn trương, nghiêm túc và trách nhiệm, Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương đã hoàn thành toàn bộ nội dung chương trình đề ra. Trung ương đã xem xét, cho ý kiến và quyết định nhiều vấn đề quan trọng. Bộ Chính trị đã tiếp thu tối đa và giải trình những vấn đề còn có ý kiến khác nhau. Ban Chấp hành Trung ương đã nhất trí cao thông qua nghị quyết của Hội nghị. Sau đây, tôi xin thay mặt Bộ Chính trị phát biểu khái quát lại những kết quả chủ yếu của Hội nghị và nhấn mạnh thêm một số vấn đề để thống nhất lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện.
1- Hội nghị đã xem xét kết quả tổng kết và nhất trí ban hành Nghị quyết mới về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước
Hội nghị thống nhất nhận định: Sau hơn 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về văn hóa, tư duy lý luận về văn hóa của chúng ta đã có bước phát triển; thể chế về văn hóa từng bước được xây dựng, hoàn thiện; đời sống văn hóa ngày càng phong phú. Các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc được kế thừa và phát huy; nhiều chuẩn mực văn hóa, đạo đức mới được hình thành. Sản phẩm văn hóa, văn học - nghệ thuật ngày càng đa dạng. Công nghệ - thông tin, nhất là thông tin đại chúng, có bước phát triển mạnh mẽ. Nhiều phong trào văn hóa đem lại hiệu quả thiết thực. Truyền thống văn hóa gia đình, dòng họ, cộng đồng… được phát huy. Xã hội hóa hoạt động văn hóa ngày càng được mở rộng, góp phần đáng kể vào việc xây dựng các thiết chế văn hóa. Nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể được bảo tồn, tôn tạo. Nhiều phong tục, tập quán của đồng bào các dân tộc thiểu số được nghiên cứu, sưu tầm và phục dựng. Quyền tự do sáng tạo của văn nghệ sĩ được tôn trọng; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và sinh hoạt văn hóa của nhân dân được đề cao. Giao lưu, hợp tác quốc tế về văn hóa được quan tâm và có nhiều khởi sắc.
Tuy nhiên, so với những thành tựu trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại thì thành tựu trong lĩnh vực văn hóa chưa thực sự tương xứng; chưa đủ để tác động có hiệu quả đối với việc xây dựng con người và môi trường văn hóa lành mạnh. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng và trong xã hội có chiều hướng gia tăng. Đời sống văn hóa ở nhiều nơi còn nghèo nàn; khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa miền núi, vùng sâu, vùng xa với đô thị và trong các tầng lớp nhân dân chậm được rút ngắn. Môi trường văn hóa thiếu lành mạnh, ngoại lai, trái thuần phong mỹ tục; các tệ nạn xã hội, tội phạm có chiều hướng gia tăng. Còn ít những tác phẩm văn học - nghệ thuật có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật. Hoạt động lý luận, phê bình văn hóa, văn nghệ chưa theo kịp thực tiễn sáng tác. Việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa hiệu quả chưa cao, nguy cơ mai một chưa được ngăn chặn. Hệ thống thông tin đại chúng thiếu quy hoạch khoa học, gây lãng phí nguồn lực; một số cơ quan truyền thông có biểu hiện xa rời tôn chỉ, mục đích, chạy theo thị hiếu tầm thường. Hoạt động hợp tác, giao lưu văn hóa với nước ngoài còn hạn chế; vẫn còn tình trạng tiếp thu dễ dãi, thiếu chọn lọc sản phẩm văn hóa bên ngoài, tác động tiêu cực đến văn hóa trong nước.
Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém nói trên có nhiều, nhưng chủ yếu là do nhiều cấp ủy và chính quyền chưa quan tâm đầy đủ đến lĩnh vực này; lãnh đạo, chỉ đạo chưa thật quyết liệt. Việc cụ thể hóa, thể chế hóa Nghị quyết còn chậm và thiếu điều kiện bảo đảm thực hiện. Công tác quản lý nhà nước về văn hóa chậm được đổi mới; có lúc, có nơi bị xem nhẹ, thậm chí buông lỏng; kỷ luật kỷ cương không nghiêm. Đầu tư cho văn hóa chưa tương xứng và còn dàn trải. Chưa nắm bắt kịp thời những vấn đề mới về văn hóa để đầu tư đúng hướng và có hiệu quả. Chưa quan tâm đúng mức đến công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý văn hóa các cấp...
Về phương hướng, nhiệm vụ trong thời gian tới, Trung ương chỉ rõ, phải tiếp tục kế thừa, bổ sung và phát triển những quan điểm của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa đã được nêu trong Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII; đồng thời nhấn mạnh tư tưởng: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực và nguồn lực nội sinh quan trọng cho phát triển bền vững đất nước; văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội; tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Trong xây dựng văn hóa phải lấy xây dựng, phát triển con người có nhân cách, đạo đức, có lối sống tốt đẹp làm trọng tâm; xây dựng môi trường văn hóa (gia đình, cộng đồng và xã hội) lành mạnh làm cốt lõi.
Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với những đặc trưng tiêu biểu là dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Nền văn hóa Việt Nam tiên tiến là một nền văn hóa yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và tinh hoa văn hóa nhân loại nhằm mục tiêu tất cả vì con người, tất cả vì tự do, hạnh phúc và sự phát triển phong phú, toàn diện cho mỗi con người trong mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa con người và tự nhiên. Bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa được vun đắp nên qua hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn; lòng tự tôn, tự cường dân tộc; tinh thần cộng đồng gắn kết hài hòa giữa cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái bao dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; là đức hy sinh cao thượng tất cả vì độc lập dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân; là sự ứng xử văn minh, lịch sự, tính giản dị và trong sạch trong lối sống.
Con người Việt Nam là sự kết tinh của nền văn hóa Việt Nam. Vì vậy, quá trình xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam cũng chính là quá trình thực hiện chiến lược con người, xây dựng và phát huy nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao. Đây là khâu trọng tâm của sự nghiệp xây dựng nền tảng tinh thần, tiềm lực văn hóa và chế độ xã hội chủ nghĩa của chúng ta. Hướng các hoạt động văn hóa vào việc xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, ý thức công dân, tuân thủ pháp luật, làm cho văn hoá trở thành nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách. Đúc kết và xây dựng hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Đưa nội dung giáo dục đạo đức con người, đạo đức công dân vào các hoạt động giáo dục của xã hội. Đề cao trách nhiệm cá nhân đối với bản thân, gia đình và xã hội. Khuyến khích, nâng đỡ, nhân rộng cái đúng, cái tốt, cái tích cực; bảo vệ các giá trị nhân văn trong đời sống xã hội. Đấu tranh đẩy lùi cái xấu, cái ác, cái lạc hậu; chống các quan điểm sai trái gây ảnh hưởng xấu đến xây dựng văn hóa và ổn định xã hội.
Tiếp tục xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phát huy các giá trị gia đình, cộng đồng, dân tộc Việt Nam. Thực hiện chiến lược quốc gia về gia đình Việt Nam. Mỗi trường học phải thực sự là một trung tâm văn hóa giáo dục, rèn luyện con người về lý tưởng, phẩm chất, nhân cách, lối sống; giáo dục truyền thống văn hóa cho thế hệ trẻ. Xây dựng đời sống văn hóa ở địa bàn dân cư, trường học, cơ quan, đơn vị, cơ sở sản xuất, kinh doanh; thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở. Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong xây dựng nếp sống văn minh, nhất là việc cưới, việc tang, lễ hội. Tập trung đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và sự bùng nổ của công nghệ thông tin, truyền thông. Đẩy nhanh việc cụ thể hóa, thể chế hóa các quan điểm, đường lối của Đảng về văn hóa và có chế tài đủ mạnh để tổ chức thực hiện Nghị quyết, ngăn ngừa những vi phạm trong hoạt động văn hóa. Chủ động đấu tranh phòng, chống các biểu hiện suy thoái về tư tưởng, đạo đức, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trên lĩnh vực văn hóa. Quản lý tốt hơn việc sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet. Ngăn chặn có hiệu quả tình trạng một bộ phận báo chí, xuất bản, văn hóa, văn nghệ hoạt động không đúng tôn chỉ, mục đích, sa đà vào những thông tin, sản phẩm lệch lạc, thị hiếu tầm thường. Tích cực đấu tranh với những biểu hiện lai căng, những sản phẩm độc hại, những hành vi phi văn hóa, phản văn hóa, góp phần bảo vệ, giữ gìn và phát huy những giá trị tốt đẹp, bản sắc văn hóa dân tộc và tính thống nhất trong đa dạng của văn hóa Việt Nam.
Phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật, tạo mọi điều kiện cho sự tìm tòi, sáng tạo của anh chị em văn nghệ sĩ để có nhiều tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật, phản ánh chân thật, sinh động, sâu sắc đời sống, lịch sử dân tộc và công cuộc đổi mới đất nước. Phát huy các giá trị, nhân tố tích cực trong đạo đức, văn hóa tôn giáo; khuyến khích các hoạt động tôn giáo hướng thiện, nhân đạo, nhân văn, tiến bộ, “tốt đời, đẹp đạo”; ngăn ngừa và phê phán các biểu hiện mê tín dị đoan, buôn thần bán thánh cùng những hành vi lợi dụng, đội lốt tôn giáo để hoạt động phi pháp, chống phá chế độ.
Xây dựng chiến lược phát triển đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa. Tăng cường nguồn lực cho văn hóa. Tiếp thu tinh hoa văn hóa và kinh nghiệm phát triển, quản lý văn hóa của các nước trên thế giới.
2- Hội nghị thống nhất về tư tưởng chỉ đạo, định hướng hoàn thiện đề cương và xây dựng dự thảo các văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng
Đánh giá cao sự chuẩn bị của Tiểu ban văn kiện và Tiểu ban kinh tế - xã hội, Trung ương đồng tình về cơ bản với dự thảo Đề cương Báo cáo Chính trị và Đề cương Báo cáo phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020. Đồng thời, nhấn mạnh ý nghĩa, tầm quan trọng của Đại hội XII trong việc tiếp tục thực hiện Cương lĩnh của Đảng (bổ sung, phát triển năm 2011), Hiến pháp năm 2013 và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2011 - 2020), từ đó định hướng cho hai Tiểu ban và các cơ quan hữu quan tiếp tục nghiên cứu, hoàn chỉnh đề cương và xây dựng dự thảo các văn kiện Đại hội để trình Hội nghị Trung ương 10 xem xét, quyết định vào cuối năm nay.
Trung ương yêu cầu, việc chuẩn bị các văn kiện trình Đại hội XII phải thể hiện tinh thần tiếp tục chăm lo công tác xây dựng Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước và cả hệ thống chính trị; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, khai thác mọi nguồn lực, vật chất, tinh thần, trong nước và ngoài nước, phục vụ cho sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển đất nước nhanh và bền vững. Quan tâm xử lý thật tốt các mối quan hệ lớn: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và Nhân dân làm chủ.
Trong quá trình chuẩn bị các văn kiện, phải căn cứ vào Nghị quyết Đại hội XI, các nghị quyết của Trung ương và kết quả tổng kết 30 năm đổi mới, đồng thời bám sát vào thực tiễn của đất nước để đánh giá một cách khách quan, khoa học các vấn đề; phân tích sâu sắc các nguyên nhân; dự báo có cơ sở khoa học triển vọng tình hình trong và ngoài nước, để từ đó xác định đúng đắn phương hướng, nhiệm vụ và các giải pháp chủ yếu cho nhiệm kỳ tới.
Đặc biệt, cần đi sâu phân tích, đánh giá việc triển khai thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ 5 năm 2010 - 2015; dự báo khả năng thực hiện mục tiêu Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2010 - 2020), nhất là khả năng thực hiện mục tiêu tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Chú trọng làm rõ một số vấn đề lớn quan trọng như:
Trên lĩnh vực kinh tế: Tình hình thực hiện chủ trương phát triển bền vững về kinh tế, xã hội và môi trường do Đại hội XI đề ra; việc điều chỉnh mục tiêu và chỉ đạo điều hành chuyển sang ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng hợp lý, bảo đảm an sinh xã hội; việc thực hiện chủ trương đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, thực hiện 3 khâu đột phá chiến lược...; việc xác định các nguồn lực và động lực mới cho sự phát triển đất nước.
Trên lĩnh vực xã hội: Cùng với các vấn đề về lao động, việc làm, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, bảo đảm an sinh, trật tự, an toàn xã hội,... cũng cần phân tích, đánh giá về thực trạng biến đổi cơ cấu xã hội, sự phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội ở nước ta hiện nay; việc nhận thức và giải quyết các quan hệ xã hội, quan hệ lợi ích, kiểm soát rủi ro, tệ nạn, tiêu cực, mâu thuẫn, xung đột xã hội; việc nhận thức và thực hiện các chính sách xã hội; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển; tình hình tư tưởng, tâm trạng xã hội,...
Về quốc phòng, an ninh, đối ngoại: Trước những diễn biến phức tạp, khó lường trên thế giới, trong khu vực, nhất là tình hình Biển Đông hiện nay, cần có sự quan tâm đặc biệt đối với việc thực hiện nhiệm vụ bảo đảm quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Xác định rõ những thuận lợi, khó khăn, thách thức đang đặt ra và chủ trương, chính sách, biện pháp cần áp dụng để giữ vững độc lập, chủ quyền, an ninh quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ và môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển. Nhận định, đánh giá thật sát, đúng về kết quả đấu tranh, đẩy lùi 4 nguy cơ mà Đảng ta đã cảnh báo để có chính sách, biện pháp phù hợp, bảo đảm thực hiện thành công Chiến lược bảo vệ Tổ quốc đã được Hội nghị Trung ương 8 khóa XI ban hành gần đây.
Về xây dựng Đảng và hệ thống chính trị: Cần phân tích, đánh giá đúng thực trạng và đề ra các giải pháp cụ thể để tiếp tục xây dựng Đảng ta và hệ thống chính trị nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ và phương thức lãnh đạo, quản lý. Đặc biệt chú trọng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, phòng, chống sự suy thoái, biến chất, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; công tác bảo vệ chính trị nội bộ; vấn đề thực hiện dân chủ và kỷ luật, kỷ cương, đoàn kết, thống nhất trong Đảng; vấn đề chất lượng lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng; xây dựng, thực hiện chiến lược cán bộ và công tác cán bộ; nội dung, mô hình, phương thức cầm quyền của Đảng; phương thức lãnh đạo và lề lối công tác của Đảng; vấn đề thực hiện dân chủ gắn với kỷ cương trong hoạt động của Nhà nước; hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực của các cơ quan nhà nước; đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận, các đoàn thể chính trị - xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, nhất là trong giám sát, kiểm soát quyền lực nhà nước, xây dựng sự đồng thuận xã hội...
Theo những định hướng trên đây, các Tiểu ban và Tổ Biên tập cần phát huy cao độ trí tuệ tập thể, thu hút sự đóng góp của toàn Đảng, của nhân dân, tập trung sức xây dựng dự thảo các văn kiện đúng tầm trình Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, bảo đảm Báo cáo chính trị thực sự là văn kiện trung tâm của Đại hội để lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong nhiệm kỳ 2016 - 2021; Báo cáo kinh tế - xã hội là báo cáo chuyên sâu về việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trong 5 năm tới.
3- Hội nghị đã thảo luận dân chủ, xem xét thận trọng và thống nhất kết luận, cho ý kiến chỉ đạo đối với một số vấn đề quan trọng khác
Một là, về việc chuẩn bị đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội lần thứ XII của Đảng, Trung ương đã đóng góp nhiều ý kiến cụ thể, xác đáng vào Tờ trình và dự thảo Chỉ thị của Bộ Chính trị. Đồng thời nhấn mạnh, đây là công việc trọng tâm, cần sớm được triển khai thực hiện, với tinh thần tiếp tục đổi mới theo hướng thiết thực, hiệu quả, phát huy dân chủ đi đôi với giữ vững nguyên tắc, kỷ luật, kỷ cương của Đảng; bảo đảm tăng cường đoàn kết, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng. Các cấp ủy đảng cần quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo việc thảo luận các dự thảo văn kiện của Đại hội toàn quốc lần thứ XII và đại hội đảng bộ cấp trên; đồng thời chuẩn bị thật tốt các báo cáo của ban chấp hành đảng bộ mình. Báo cáo của ban chấp hành đảng bộ cần đánh giá đúng tình hình thực hiện nghị quyết của nhiệm kỳ qua; chỉ rõ những kết quả, thành tích đã đạt được, những hạn chế, yếu kém còn tồn tại và nguyên nhân, bài học kinh nghiệm; từ đó đề ra phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp cho nhiệm kỳ tới. Công tác chuẩn bị nhân sự và bầu cử cấp ủy phải thực hiện theo đúng Điều lệ, quy chế, quy định của Đảng, lựa chọn, giới thiệu và bầu được những người thật sự xứng đáng, đủ tiêu chuẩn tham gia cấp ủy; chú ý phát hiện, giới thiệu những nhân tố mới có triển vọng, bảo đảm tỷ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc.
Ban Chấp hành Trung ương giao Bộ Chính trị, sau Hội nghị này, khẩn trương chỉ đạo, sớm hoàn chỉnh và ban hành Chỉ thị của Bộ Chính trị để định hướng cho toàn Đảng chuẩn bị và tiến hành thành công đại hội các cấp, góp phần cho thành công của Đại hội XII của Đảng.
Hai là, về quy chế bầu cử trong Đảng, Trung ương đã thảo luận rất kỹ và nhất trí ban hành Quy chế mới của Ban Chấp hành Trung ương trên cơ sở kế thừa Quy chế bầu cử trong Đảng do Bộ Chính trị các khóa trước ban hành, đồng thời sửa đổi, bổ sung một số quy định mới quan trọng, như: Về đối tượng và phạm vi điều chỉnh; về việc ứng cử, đề cử của cấp ủy viên, ủy viên ban thường vụ, Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư; về số dư trong danh sách bầu cử; về lập danh sách bầu cử; về quy trình, thủ tục bầu cử...
Ban Chấp hành Trung ương yêu cầu các cấp ủy, tổ chức đảng và đảng viên nghiêm túc quán triệt, tổ chức thực hiện đúng đắn, đầy đủ Quy chế này, góp phần bảo đảm thi hành đúng Điều lệ Đảng, thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ và giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tạo sức mạnh, sự đoàn kết, thống nhất cao trong toàn Đảng.
Ba là, về đánh giá, rút kinh nghiệm việc thực hiện Quy định 165 của Bộ Chính trị về lấy phiếu tín nhiệm, Ban Chấp hành Trung ương thống nhất cao với Tờ trình của Bộ Chính trị và khẳng định chủ trương lấy phiếu tín nhiệm là hoàn toàn đúng đắn, cần thiết. Công tác chỉ đạo triển khai thực hiện việc lấy phiếu tín nhiệm trong thời gian qua, nhìn chung, được tiến hành chặt chẽ, nghiêm túc, theo đúng tinh thần Nghị quyết Trung ương 4, quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước, được đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình, ủng hộ. Việc lấy phiếu tín nhiệm là một kênh thông tin đánh giá cán bộ, có tác dụng kịp thời cảnh báo, nhắc nhở để cán bộ tự soi mình, phát huy ưu điểm, tự sửa chữa khuyết điểm, góp phần ngăn ngừa sự thoái hóa, biến chất, phòng, chống tham nhũng, lãng phí; đồng thời cũng là biện pháp tốt để quản lý và bảo vệ cán bộ.
Tuy nhiên, do đây là công việc mới, chưa từng làm, cho nên cũng còn có những hạn chế, khiếm khuyết, cần được kịp thời rút kinh nghiệm, bổ sung, điều chỉnh. Trung ương hoan nghênh tinh thần nghiêm túc, cầu thị, lắng nghe của Bộ Chính trị và nhất trí cao với Bộ Chính trị cần điều chỉnh một số điểm trong Quy định 165 để tiếp tục triển khai thực hiện, như đề xuất của Bộ Chính trị.
Bốn là, về tổng kết thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường, Ban Chấp hành Trung ương ghi nhận, biểu dương những nỗ lực của các cấp ủy đảng, chính quyền và nhân dân các tỉnh, thành phố được chọn thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường theo Nghị quyết Trung ương 5 khóa X và Nghị quyết 26 của Quốc hội khóa XII. Trung ương nhất trí về cơ bản với những nhận định, đánh giá tình hình và đề xuất của Ban cán sự đảng Chính phủ, yêu cầu Chính phủ nghiêm túc tiếp thu ý kiến của Trung ương, hoàn chỉnh đề án trình Quốc hội xem xét trong quá trình chuẩn bị xây dựng Luật Tổ chức chính quyền địa phương, nhằm tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền địa phương, đúng theo quy định của Hiến pháp năm 2013. Trong thời gian từ nay đến khi Luật Tổ chức chính quyền địa phương mới được thông qua và có hiệu lực, tiếp tục giữ nguyên nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức hoạt động của chính quyền các địa phương được chọn thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân.
Năm là, đối với Đề án tổ chức Đảng bộ Ngoài nước, Ban Chấp hành Trung ương đã xem xét và quyết định: Đảng bộ Ngoài nước trực thuộc Trung ương, chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp và thường xuyên của Ban Bí thư; giao Bộ Chính trị xem xét, quyết định về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Đảng ủy Ngoài nước theo quy chế làm việc.
Thưa các đồng chí,
Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã thành công tốt đẹp; nhiệm vụ đặt ra cho chúng ta từ nay đến cuối nhiệm kỳ khoá XI là rất rõ ràng nhưng cũng hết sức nặng nề. Kinh tế - xã hội tuy đã có những chuyển biến tích cực, đúng hướng, nhưng vẫn đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, đặc biệt là kết quả đạt được một số chỉ tiêu còn thấp xa so với mục tiêu, nhiệm vụ Đại hội XI của Đảng đã đề ra. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, đấu tranh phòng, chống tham nhũng đã thu được những kết quả quan trọng bước đầu, nhưng vẫn còn không ít những hạn chế, yếu kém. Văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội, cũng có nhiều biểu hiện tiêu cực, xuống cấp, cần sớm được khắc phục như chúng ta vừa bàn những ngày qua. Đặc biệt là, tình hình Biển Đông hiện đang diễn biến rất phức tạp, nghiêm trọng, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải hết sức tỉnh táo, sáng suốt, tăng cường đoàn kết, cả nước một lòng, kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; đồng thời giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước.
Đề nghị mỗi đồng chí Ủy viên Trung ương hãy nhận thức đầy đủ và nêu cao hơn nữa trách nhiệm thiêng liêng và nặng nề của mình, nỗ lực phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trên cương vị công tác được giao, góp phần lãnh đạo tổ chức thực hiện có kết quả Nghị quyết Đại hội XI, các Nghị quyết của Trung ương, Nghị quyết của Hội nghị lần này, đồng thời chuẩn bị thật tốt đại hội Đảng bộ các cấp và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng.
Với tinh thần đó, tôi xin tuyên bố bế mạc Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI. Chúc các đồng chí sức khỏe, hạnh phúc và thành công.
Xin trân trọng cảm ơn./.
http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Tieu-diem/2014/27270/Phat-bieu-be-mac-cua-Tong-Bi-thu-tai-Hoi-nghi-Trung.aspx

Trích một phần bài cụ tổng lú nhà ta
" Nền văn hóa Việt Nam tiên tiến là một nền văn hóa yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và tinh hoa văn hóa nhân loại nhằm mục tiêu tất cả vì con người, tất cả vì tự do, hạnh phúc và sự phát triển phong phú, toàn diện cho mỗi con người trong mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa con người và tự nhiên. Bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa được vun đắp nên qua hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước."
Nền văn hóa Việt Nam tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đã có hàng nghìn năm nay ư?.
Đảng đã lú rồi thì đừng bắt nhân dân phải lú theo đảng ông lú ơi là lú...