Dienstag, 29. November 2016

So sánh giữa 3 hiến pháp ta cảm thấy như sau:




So sánh giữa 3 hiến pháp ta cảm thấy như sau:
1. Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa 1956
"Ý thức rằng nước ta ở trên con đường giao thông và di dân quốc tế, dân
tộc ta sẵn sàng tiếp nhận các trào lưu tư tưởng tiến bộ để hoàn thành sứ
mạng trước đấng Tạo hóa và trước nhân loại là xây dựng một nền văn minh
và nhân bản bảo vệ phát triển con người toàn diện."
(Có vẻ chí chú trọng đến "Thần Giáo" hơn là con người từ đó nó dẫn đến "Độc tài" về Tôn giáo"
2. Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa 1967
"Ý thức rằng sau bao năm ngoại thuộc, kế đến lãnh thổ qua phân chia, độc
tài và chiến tranh, dân tộc Việt Nam phải lãnh lấy sứ mạng lịch sử, tiếp
nối ý chí tự cường, đồng thời đón nhận những tư tưởng tiến bộ để thiết
lập một chánh thể Cộng Hòa của dân, do dân và vì dân, nhằm mục đích đoàn
kết dân tộc, thống nhất lãnh thổ, bảo đảm Độc Lập Tự Do Dân Chủ trong
công bằng, bác ái cho các thế hệ hiện tại và mai sau."
( Một "Hiến pháp" tuyệt vời không chia rẻ để trị và hướng tới "Tương lai" đất nước và các thế hệ mai sau)
3. Hiến Pháp Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (Sửa đổi) 2013
"Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn
độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nay là Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Bằng ý chí và sức mạnh của toàn dân tộc, được
sự giúp đỡ của bạn bè trên thế giới, Nhân dân ta đã giành chiến thắng
vĩ đại trong các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước,
bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế, đạt được những thành tựu to
lớn, có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc đổi mới, đưa đất nước đi lên
chủ nghĩa xã hội.
Thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, kế thừa Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp
năm 1980 và Hiến pháp năm 1992, Nhân dân Việt Nam xây dựng, thi hành và
bảo vệ Hiến pháp này vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh."
( Chỉ thấy "Thần thánh hóa cá nhân" và nạn sùng bái chính thể "Độc tài" và làm nghĩa vụ "Quốc tế" trong công cuộc đổi mới, đưa đất nước đi lên "Chủ nghĩa xã hội")
Chẳng khác nào sẵn sàng sát nhập đất nước mình vào một nước khác. Vì mục đích bảo vệ cộng sản "Đảng trị và Quyền lực" hơn là "dân tộc"

Freitag, 25. November 2016

Chuyện lá cờ



Chuyện lá cờ
Cờ vàng hay cờ đỏ tôi cũng đã sống và trãi qua. Cờ vàng dưới thời đệ 1 cộng hòa tôi còn nhỏ và tôi được biết rằng qua sự kể lại của Ba Mẹ tôi đã từng bị dưới nạn độc tài gia đình trị. Tôi tôn trọng lá cờ vàng vì khi tôi lớn trong thời đệ 2 cộng hòa và nó cũng có một chút độc tài nhưng tương đối tự do hơn rất nhiều trong thời đệ 1 cộng hòa. Sau biến cố 1975 đã sống hơn 4 năm với lá cờ đỏ man rợ với tính cách trả thù hơn là hòa giãi cuộc nội chiến hai miền. Ngày nay tôi sống ở Hãi ngoại một đất nước đã từng gây ra chiến tranh. Và họ đã có một sự suy nghĩ sâu sắc là gây dựng lại với một nền tự do, dân chủ và đa nguyên cho đến hiện nay. Tôi rất vui chung tay với các bạn ngoại quốc là đất nước đã đón nhận và giúp đở chúng tôi. Với tình thương của con người với con người. Tôi đã không còn là quốc tịch VN chỉ còn là gốc Việt thôi, chỉ rất tiếc rằng có một số người từ sau ngày bức tường chia cách sụp đổ. Họ chạy qua đây nộp đơn xin tỵ nạn cộng sản Việt Nam và được đón nhận ở lại. Hầu như bây giờ họ đều bỏ quốc tịch Việt và sống trên một đất nước tự do, dân chủ nhưng họ đã quên đi rằng tại sao họ tới đây xin tỵ nạn cộng sản. Và ngày nay có một số quay đầu lại với chế độ mà họ đã vượt tường, chính họ là những người giúp cho chế độ cộng sản độc tài. Tôi không tham dự vào chuyện lá cờ vì ngày nay tôi đã có lá cờ khác trong tim tôi. Tôi chỉ tham gia được những gì mà tôi có thể cho một đất nước Việt Nam quá khứ của tôi cho đến nay đã chịu bao nhiêu cay đắng. Tranh đấu cho đất nước Việt nam giống như quốc gia tôi đang sinh sống.

KN


Ngọn cờ chính nghĩa Cờ vàng cờ đỏ một giống dân Tranh nhau miếng vải thêu sắc màu Ngọn cờ chính nghĩa đâu chẳng thấy Chỉ thấy anh em đổ máu xương Miền Bắc trú ẩn bom đạn Mỹ Miền Nam dân chết bởi trả thù Mậu thân khói lửa thiêu dân Huế Miền Trung đỏ lửa bởi mùa hè Quảng Trị kinh hoàng trên đại lộ Độc lập tự do đâu chẳng thấy Chỉ thấy dân ta tay bế bồng Cùng nhau chạy trốn khỏi họa đỏ Ngọn cờ chính nghĩa ở trong tâm Cờ vàng cờ đỏ ta dẹp bỏ Hơn bốn thập niên đã mong chờ Độc tài độc trị ta buông bỏ Tự do dân chủ ta xây lại Kiến thiết đa nguyên... một ngọn cờ Chung tay góp sức xây dựng nước Phá mộng bành trướng bởi Bắc phương Ngọn cờ chính nghĩa do ta phất Tự ở trong tâm tự chính mình Thay đổi cuộc sống cùng tư tưởng Hướng tới tương lai Việt... trường tồn Độc lập... ngọn cờ... chính là đây KN

Donnerstag, 24. November 2016

Phật đạo trong ta



Phật đạo trong ta...


Đạo Phật là đạo cội nguồn

Tìm về nguồn cội trong ta với người

Xã đi nguồn gốc si mê

Gây ra sân hận tham quyền trong ta

Đạo không bóng bẩy đầu môi

Là ngọn đuốc sáng dẫn đường ta đi

Nhân gian dương thế trong đời

Cùng chung nguồn gốc mọi loài thương yêu

Phật đạo chẳng ở đâu xa

Nằm trong nguồn gốc tâm ta với đời

Xã đi mọi thứ chuyên quyền

Đem nguồn sống mới vào đời chính ta

Từ bao tiền kiếp con người

Sinh bao tranh chấp gây ra hận thù

Thân người khó lắm ai ơi!

Làm thân quỹ dữ hay nhân với người

Phật đạo thoáng chốc trong ta

Như vầng trăng sáng tỏa nguồn thương yêu

Đất mẹ rạng rở sáng ngời

Cùng nhau xây đắp suối nguồn Việt Nam.

KN


"Thế giới của loài chim muông gắn liền với trời xanh. Tự do của chúng là không gian vô tận. Thế giới con người khác hoàn toàn, vì nó là một định chế xã hội, nơi có truyền thống cha mẹ con cái, vợ chồng, anh em, người thân với những tình thương yêu, chăm sóc, lo lắng lẫn nhau. Con người không thể bắt chước các loài chim tìm đến một nơi tự do vô phương hướng, bất an định."

Thích Nhật Từ trong bài Pháp thoại " Chăm sóc hạnh phúc"
Thế giới của con người nằm trong một định chế của xã hội, không nhất thiết là nằm trong một khuôn khổ của gia dình , họ hàng... Mà định chế của xã hội là của tất cả mọi cuộc sống tự do, dân chủ, đa nguyên... trong một bầu trời xanh. Nếu cứ nằm trong khuôn khổ chẳng khác gì ta giống như một con chim bị nhốt ở trong lồng. Khi thả ra không biết và dám bay đi xa, vì sợ không đủ sức vượt qua cái sợ hãi đi tìm mồi để sống. Như trong một Quốc gia độc tài toàn trị nhốt con người vào khuôn khổ của sự sợ hãi, tự do trong sự bất an định... Một quốc gia hay một con người có tự do... thật sự là hãy như một con chim trời bay tứ phương để tìm cho một cuộc sống mới của mình, là tiếng nói dân chủ của mình, là một xã hội đa nguyên trị của mình.


KN





Bạn muốn biết bạn sẽ là ai, bạn hãy coi bạn đã làm việc gì.

Dienstag, 22. November 2016

Vừa hợp tác vừa đấu tranh với Trung Quốc ở biển Đông ?


Vừa hợp tác vừa đấu tranh với Trung Quốc ở biển Đông ?
Tranh chấp Biển Đông để càng lâu càng khó. Câu « để càng lâu càng khó » này nguyên của một viên chức ngoại giao trong nước trả lời báo chí về tình trạng biên giới Việt-Trung trước đây. Khó ở đây dĩ nhiên là khó cho VN. Thời gian là kẻ thù của VN. Sự phát triển về kinh tế của TQ cho phép họ có đầy đủ phương tiện về quân sự cũng như ngoại giao, để áp đảo các nước có tranh chấp với họ ở Biển Đông, trong đó VN đứng đầu.
Khó là vì thái độ của TQ ngày càng thêm cứng rắn về các yêu sách chủ quyền ở hai quần đảo HS và TS, cũng như hải phận theo đường chín đoạn chữ U.
Thử nhìn lại vụ giàn khoan Hải dương Thạch du 981 của TQ cắm trên thềm lục địa của VN, gần đảo Tri Tôn thuộc Hoàng Sa, đầu tháng năm năm nay. Ta thấy, trên phương diện thực thi chủ quyền, tức là khả năng thi hành quyền tài phán, VN bất lực trước sự áp đảo của các lực lượng cảnh sát, kiểm ngư và hải giám của TQ. Trên phương diện ngoại giao, khi phía TQ đưa những bằng chứng củng cố chủ quyền của họ tại HS và TS trước diễn đàn LHQ, thì VN không đưa ra được các lý lẽ thuyết phục nào để bác bỏ. TQ rút giàn khoan đi, có thể do trở ngại kỹ thuật, có thể vì tốn kém, có thể do áp lực quốc tế, nhưng cũng có thể đã hoàn thành xong công tác thăm dò. Họ rút đi không hề do bất kỳ một áp lực nào từ phía VN.
Còn về các bãi đá thuộc Trường Sa mà TQ chiếm của VN từ năm 1988 như các đá Gạc Ma, đá Chữ Thập v.v... TQ đã nỗ lực từ nhiều năm nay để xây dựng các bãi đá này trở thành các đảo nhân tạo. VN bất lực, hoặc là vì không biết các việc làm của TQ trên lãnh thổ của mình, hoặc là biết nhưng không dám phản đối. Bộ ngoại giao VN chỉ mới lên tiếng phản đối hồi đầu tháng này, vì không thể giữ im lặng được nữa, khi mà phía Phi tung những hình ảnh vệ tinh cho thấy tình trạng của các đảo.
Rõ ràng VN không có một đối sách nào hữu hiệu để đối phó với sự việc gia tăng áp lực của TQ.
Về kinh tế VN vẫn phát triển một cách èo uột, không lành mạnh. Về quân sự, VN vẫn lệ thuộc từ các nguồn nước ngoài, nhất là từ Nga. Về an ninh và phòng thủ hỗ tương, VN là nước hiếm hoi trong khu vực không ký hiệp định an ninh hỗ tương với một cường quốc. Điều này cho thấy, nếu có đụng chạm xảy ra, VN sẽ đối phó một mình.
Thời gian tới chắc chắn TQ sẽ có những bước đi chiến lược. Các đảo nhân tạo mà họ xây dựng ở Trường Sa sẽ lắp đặt các giàn ra đa, các hệ thống kiểm soát không lưu. TQ sẽ tuyên bố « Vùng nhận diện phòng không » trên vùng biển phía bắc Trường Sa. Khi họ tuyên bố vùng nhận diện phòng không, TQ đã chiếm được ½ Biển Đông rồi. Biển Đông để lâu càng khó là vậy.
Vừa rồi TT Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố VN sẽ « vừa hợp tác vừa tranh đấu » với TQ trong vấn đề tranh chấp Biển Đông. Vấn đề là VN « hợp tác » với TQ về cái gì ở biển Đông ?
Theo các tài liệu loan truyền từ trong nước thì lãnh đạo CSVN đã nhìn nhận với TQ là có ba vùng biển tranh chấp. Ba vùng biển này dĩ nhiên là các vùng biển Vịnh Bắc Việt, biển Hoàng Sa và Biển Trường Sa. Vùng vịnh Bắc Việt thì đã phân định xong. VN có khai thác chung với TQ ở một số lô dầu khí ở đây.
Hoàng Sa thì từ lâu nay TQ tuyên bố rằng nó thuộc chủ quyền bất khả tranh nghị của TQ. Yêu sách của TQ về hải phận « EEZ - kinh tế độc quyền » các đảo Hoàng Sa là xem các đảo này có hiệu lực như đất liền. Vị trí đặt giàn khoan 981 hồi tháng năm vừa rồi, ở cách đảo Tri Tôn 24 hải lý, cũng có mục đích thăm dò thái độ của VN về yêu sách hải phận của họ. Ý nghĩa của việc « vừa hợp tác vừa tranh đấu » ở vùng biển này có nghĩa là, hai bên « hợp tác » khai thác vùng biển ở khoảng giữa các đảo HS và bờ biển VN. Tức là vùng khai thác chung 100% trên thềm lục địa và hải phận kinh tế độc quyền của VN. Còn « tranh đấu » với TQ ở đây là cố gắng thuyết phục TQ không lấn quá xa về phía VN.
« Vừa hợp tác vừa đấu tranh » với TQ ở khu vực Hoàng Sa có nghĩa là VN mất nhiều hay mất ít mà thôi.
Còn vùng biển Trường Sa, đáng lẽ TQ không có lý do nào để đưa ra yêu sách ở đây. Vấn đề là lãnh đạo VN đã nhìn nhận rằng TQ và VN có tranh chấp ở khu vực này. Khi nhìn nhận đây là vùng biển là « có tranh chấp », theo tập quán quốc tế, khu vực này sẽ chia đôi, hay là cộng đồng khai thác.
« Vừa hợp tác vừa đấu tranh » với TQ ở khu vực biển Trường Sa chỉ có nghĩa là hai bên « hợp tác » khai thác trên thềm lục địa của VN, nhưng VN cố gắng « tranh đấu » để hưởng nhiều hơn TQ một chút.
Còn trong trường hợp khi TQ đã tuyên bố « vùng nhận diện phòng không » trên khu vực bắc quần đảo Trường Sa, dĩ nhiên VN không thể « hợp tác » được với TQ rồi, mà tranh đấu thế nào, thật tình là nan giải.
« Vừa hợp tác vừa tranh đấu » của TT Nguyễn Tấn Dũng sẽ khả thi, nhưng cho thấy đây là một bước lùi chiến lược, một nhượng bộ lớn lao của VN đối với các yêu sách của TQ.
Giải pháp nào ?
Giải pháp tốt nhất vẫn là đưa vấn đề tranh chấp ra trước một trọng tài quốc tế. Gần đây tôi có đề nghị một phương án pháp lý, VN đơn phương đệ đơn ra tòa Công lý quốc tế, yêu cầu Tòa giải thích về hiệu lực ở một số điều trong các công ước quốc tế nền tảng, gồm ba điểm.
Thứ nhất, yêu cầu trọng tài quốc tế tuyên bố rằng Việc chiếm hữu một lãnh thổ bằng phương pháp vũ lực là vi phạm các nguyên tắc cơ bản của LHQ.
Thứ hai, Việc TQ chiếm hữu các đảo ở Trường Sa năm 1988 bằng vũ lực không đem lại cho Trung Quốc danh nghĩa chủ quyền.
Thứ ba, Việc chiếm hữu quần đảo Hoàng Sa tháng giêng năm 1974 bằng vũ lực không đem lại cho Trung Quốc danh nghĩa chủ quyền.
Các điều yêu cầu Tòa tuyên bố hoàn toàn thuộc thẩm quyền của Tòa Công lý Quốc tế, cũng không hề dính dáng đến những bảo lưu của TQ về việc phân giải tranh chấp chủ quyền bằng trọng tài quốc tế.
Làm các việc này, thứ nhất, là ta đưa vùng biển Hoàng Sa, là vùng mà TQ nói là không có tranh chấp, trở thành vùng biển có tranh chấp. Thứ hai, sẽ ngăn chặn hành vi tuyên bố « vùng nhận diện phòng không » của TQ ở vùng bắc quần đảo Trường Sa.
Theo tôi thì việc kiên tụng này không tốn kém nhiều, cũng không có rủi ro VN bị thất kiện sẽ mất chủ quyền ở HS và TS. Theo tôi thấy, giải pháp này của tôi hiện nay vẫn là một giải pháp tốt nhất, tạo cho VN một lối thoát tránh những áp lực của TQ hiện nay.
Nhưng đó vẫn chỉ là tạm thời. Điều cần thiết là VN phải thay đổi chế độ, phải dân chủ hóa chế độ, chia sẻ những giá trị chung vơi Hoa Kỳ về dân chủ, về các quyền con người. Từ đó VN mới có thể trở thành đồng minh của HK, ký kết những kết ước an ninh hỗ tương với nước này. Việc dựa vào kẻ mạnh để tự vệ là điều mà các nước thường làm. Trong khu vực, chỉ có VN là không làm việc này.
Publié par Nhan Tuan Truong

Độc tài và khủng bố


Khủng bố tôn giáo và cộng sản có khác gì nhau?
Ngày hội ăn mừng người đã chết sống lại của dân tộc Maya tại Mễ Tây Cơ. " Những người chết về chiến tranh hay nhửng người Mẹ chết vì sinh đẻ.
Con người từ xa xưa cho tới nay khi có mặt trên trái đất này, đã sống trong sự khủng bố thường xuyên. Khủng bố tôn giáo đáng sợ nhất trong thời Trung cổ là cho tôn giáo mình đúng nhất, không có tôn giáo nào ngoài tôn giáo nàocủa mình. Do quyền hành lãnh đạo độc tôn và được sự trợ giúp của nhà lãnh đạo tinh thần yễm trợ. Trước đây đã có những tôn giáo khác phát triển, liên tục bị khủng bố cho đến lúc không còn nữa. Như thời Trung cổ ở Âu Châu hay Nam Mỹ và các Quốc gia vùng đảo Karibik. Do đế Quốc La Mã, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha gây ra xâm chiếm thuộc địa đã tận diệt tất cả văn hóa của những Quốc gia đó v.v...Cách đây vài trăm năm ở Âu Châu bắt đầu có sự thay đổi vì sự nhận thức của những người có dân trí cao như ông Luther đã phản đối vì sự lộng quyền của Vua Chúa và các Tổng giám mục, Hồng Y và giám mục của Thiên chúa giáo La Mã." Ai có tội sẽ đóng một đồng tiền vàng cho giáo hội thì Chúa sẽ ban phước cho người đó được hết tội" Chỉ có người giàu có và quan quyền bao che thì hết tội còn người dân nghèo khố rách áo ôm thì vẫn có tội vì không tiền đóng lệ phí cho khủng bố. Có khác gì với cộng sản hay không?
Và từ đó mới có tôn giáo khác ra đời, đó là "Freikirche" nhà thờ tự do "Tin Lành Giáo" chống lại giáo hội cực đoan Thiên chúa giáo La Mã. Cũng như về sự khủng bố trong gia đình do Cha Mẹ bị các Giám Mục cực đoan dạy bảo. "Con không nghe lời lấy người tôn giáo khác, nó không theo tôn giáo mình là không được lấy nhau... Còn con không nghe lời thì Bố Mẹ từ con không nhìn nhận." Chúng ta lấy nhau vì thương nhau và kết hợp với nhau đi suốt đoạn đường vì tình thương... chứ không phải vì tôn giáo cũng như Hồi giáo cũng vậy. Chẳng khác gì một lời đe dọa khủng bố ngay từ trong nhà. Ở Mễ Tây cơ họ tổ chức lại ngày ăn mừng lễ hội những người đã chết theo truyền thống dân Maya của họ." Tưởng niệm những người chết vì chiến tranh hay những người Mẹ chết vì sinh đẻ...".Hay "Woodoo" đạo thờ thầnTrong các vùng đảo Karibik.
Đảng cộng sản ngày nay họ khủng bố người dân tinh vi hơn, nhưng không khác gì các vụ khủng bố tôn giáo người dân xưa kia. Họ mua chuộc bằng đủ mọi hình thức để khống chế người dân không được quyền bình đẳng ngang với họ. Để giữ vững ngôi vị độc tôn mà họ thường xuyên tuyên truyền là dẹp bỏ chế độ phong kiến nô lệ. Nhưng chính họ khi thành công đã lập lại chế độ phong kiến "Vua Chúa" trở lại trên đầu nhân dân Việt bằng hình thức nô lệ kiểu mới. "Xuất khẩu lao động Việt ra nước ngoài ăn bám, Và nhập dân lao động nước bạn vào với lời nói của chính quyền cộng sản vì tay nghề cao hơn"
Không có một chính quyền hay tôn giáo nào ngăn cản được tiếng nói trung thực của mình khi nhìn thấy sự thật ngay trước mắt.
Khủng bố và độc tài là ngăn cản sự tiến trình của mọi con người được bình quyền trong cuộc sống của thế kỹ 21 này.
KN

Die Mexikaner lassen sich durch den Tod nicht einschüchtern, provokativ werden Skelette überall als Verzierung aufgehängt und Totenköpfe werden als Zuckergebäck genascht. Das vielleicht bekannteste…
PLANET-MEXIKO.COM

Sonntag, 13. November 2016

Bầy Việt Điểu Sẽ Mọc Cánh Trở Lại


 Ai trốn tránh trách nhiệm tiếng nói của sự tự do để đổi lấy cái sự bảo đảm cho riêng mình, thì cuối cùng sẽ mất tất cả.

Giới Trí Thức Việt Nam: Bầy Việt Điểu Sẽ Mọc Cánh Trở Lại


Giới trí thức Việt Nam, qua nhiều chế độ, suốt dòng lịch sử bất hạnh tới nay, vẫn chỉ là những con chim Việt Điểu gẫy cánh, đầy thương tích, đầy mặc cảm [tự ti, tự tôn lẫn lộn], nên đã trở thành một loại nhân-sinh-vật hiếm hoi, dần dà tuyệt diệt chăng?
Loại nhân-sinh-vật này tự nó cũng đủ thú đau thương, đủ tàn lực tự hủy, nếu thả lỏng, nếu không còn gì làm hơn là an phận, ngồi xé lịch đợi ngày qua.
Nên chế độ quen dùng bạo lực cũng chả cần thêm gậy gộc, cung nỏ, súng đạn. Chả cần thêm hận thù, đày ải. Vô ích. Với cái đà ù lì, bất di bất dịch trong nước, người Việt trí thức sẽ tự dưng biến mất khỏi môi trường phi nhân, phi nghĩa. Như những dòng sông khô lòng, không bao giờ thấy biển cả.
Người trí thức Việt Nam ngày hôm nay nếu ý thức được như vậy, chắc không để tự cứu lấy mình, vì quá muộn, quá yếu kém trước bạo quyền.
Dù sao họ vẫn còn lý do để tồn tại, để trở thành hữu ích: Họ chỉ cần dồn lực trao trả lại các thế hệ sau những sự thật lịch sử của một dân tộc bị nạn tập thể, trong suốt 70 năm qua; họ chỉ cần chia sẻ những thử thách, những thách đố của người đi trước trong cuộc hành trình tìm lại dân tộc, qua những cuộc giao tranh ý thức hệ hao mòn, diệt chủng. Lịch sử mà họ dấn thân tách mảnh sẽ giúp thế hệ hậu duệ thấy rõ hơn, hiểu biết nhiều hơn về thực trạng khai mở, thiếu sót của một quá khứ cần hoàn chỉnh. Họ sẽ phanh phui với thế hệ trẻ những kinh nghiệm máu mủ, những lầm lẫn mà họ đã mắc phải. Họ sẽ nhắn nhủ con cháu họ về trách nhiệm bảo trọng lấy mình và tha nhân. Họ sẽ căn dặn giới trẻ tránh xa những thủ đoạn lừa lọc, bất nhân, bất nghĩa để chọn lấy một con đường sống nhân bản, tự trọng, tự quyết.
Và như một phép lạ, bầy Việt Điểu Trẻ của các thế hệ nhập cuộc ngày hôm nay sẽ mọc cánh trở lại, trên toàn không gian Việt.
Suốt mấy thâp niên qua, đa số người Việt tự do tại hải ngoại luôn luôn đùm bọc, hỗ trợ người trong nước. Vì liên hệ máu mủ, vì những tình cảm linh thiêng, vì thiện chí tự nguyện, họ đã đem lại kinh nghiệm và hy vọng chính đáng giúp đồng bào, đồng hương sớm thoát khỏi cảnh tù đầy quốc nội.
Song song, tư tưởng dân chủ chân chính phải là những cánh cửa mở rộng tiếp đón kiến thức và tâm thức, khi tự nguyện soi sáng, biết mình, biết người, biết đời để sống còn. Như vậy, người dân trong nước phải tự nguyện dấn thân vào cuộc hành trình của chính mình, không ai ép buộc, không ai quyết định hộ.
Kiến thức và tâm thức trong cuộc sống tự phát hữu hiệu còn là một ý niệm kết sinh vẹn toàn: “lương tri” và “lương tâm” cần đi song song, rồi hội nhập. Cái “biết” dù cao siêu tới mấy, nhưng nếu bất nhân, bất nghĩa, nếu khinh mạn phẩm giá con người, nếu miệt thị công lý nhân đạo, chỉ là thứ diễn biến phá hoại, bất tất, bất hạnh, nên vô nghĩa.
Bất cứ ở môi trường nào, tri thức không lương tâm chỉ là tinh thần tự hủy – “Science sans conscience n’est que ruine de l’âme” [Rabelais].
Bất cứ ở xã hội nào, kẻ ác tâm sẽ tự hủy vì dùng mưu trí và tà lực để chà đạp, phá phách, phương hại xã hội và nhân loại. Họ chỉ là những hung thần tăm tối, những pho tượng làm bằng đất mót từ bùn, không nung đủ lửa sạch khí phách, nên dễ vỡ, dễ đổ.
Ngược lại, người trí thức chân chính sẽ dùng sức mọn để lọc nhơ bẩn ra tinh khiết, loại bỏ hà tì, nguy nan để hướng về lẽ sống trân trọng con người. Và tuy chỉ là những dấu ấn có thể bị xoá bỏ bất kỳ lúc nào, người trí thức chân chính vẫn có thể cùng lúc soi sáng những mục tiêu, những lộ trình cởi mở, thân thiện, hữu ích. Vì quyết tâm sống còn. Vì quyền lợi chung, vì tương lai chung của một dân tộc.
Người trí thức năm xưa, dù ngày nay là những con chim Việt Điểu gẫy cánh, nếu còn ý thức lột xác, gạt bỏ sai lầm, tháo gỡ mặc cảm phù phiếm, sẽ đủ cơ hội truyền hơi tiếp sức thân thiện tới tấm lòng non nớt, trong sáng của các thế hệ đến sau. Như thế cũng đã hoàn tất sứ mạng tự trọng khi vượt thắng lấy chính mình.
Chả mấy lúc, bầy Việt Điểu Trẻ sẽ mọc cánh trở lại…
TS-LS Lưu Nguyễn Đạt

Tim tôi là người chiến binh
Nói lên lẽ phải tâm tôi phải làm
Trí... tôi điều khiển tâm tôi
Thấy điều bất khuất tâm tôi uất hờn
Tim tôi mạch sống con người
Trái tim lẽ phải là người chiến binh

KN

Vai trò của người lính "Quân đội" và Cảnh sát trong một Quốc gia Dân chủ trị hay Đa nguyên trị.



Thanh niên là rường cột của nước nhà Việt Nam
Chứ không phải là rường cột nước nhà Việt- Trung
Mà mang tinh thần bản sắc văn hóa dân tộc
Nồng nàn hữu nghị một nhà nước ta

KN

Vai trò của người lính "Quân đội" và Cảnh sát trong một Quốc gia Dân chủ trị hay Đa nguyên trị. Trong một Quốc gia tự do dân chủ, vai trò của người lính là bảo vệ quốc gia, người dân, khi đất nước bị nạn ngoại xâm xâm chiếm. Quân đội tất nhiên không thuộc về Đảng phái nào, mặc dù họ có thể là một thành viên của " Đảng cộng hòa, đảng dân chủ, đảng tự do hay các đảng phái khác..." Vì quân đội cũng là một thành viên của người dân sống chung trong một Quốc gia. Họ cũng có quyền đi bầu cử cho đảng phái nào mà họ cảm thấy mang lợi ích đến cho Quốc gia, cho một xã hội được công bằng, chứ họ không có thể nào bảo vệ trực tiếp dưới quyền lảnh đạo của một đảng được. Chẳng khác nào họ đã làm sai cái nhiệm vụ của một Quân đội của một thành viên trong mỗi gia đình của người dân. Là bảo vệ độc tài trị của một chế độ quân phiệt bán nước hại dân. Vai trò của người cảnh sát là nhiệm vụ phải bảo vệ người dân về những tội phạm hình sự như " Trộm cắp, tham nhũng, hối lộ v.v... về mặt Giao thông phạt những kẽ cố tình hay vô tình gây ra tai nạn chết người xong bỏ chạy, uống rượu chạy xe quá mức độ cồn quy định v.v..." Nhiệm vụ người cảnh sát, khi người dân đi biểu tình đòi hỏi quyền lợi chánh đáng của họ mà chính quyền không chịu giãi quyết. Họ không thể nào đàn áp, đánh đập người dân để giãi tán cuộc biểu tình khi mà nguời dân họ không đập phá , gây rối trật tự cuộc sống của những người khác... Người cảnh sát cũng là một thành viên của người dân trong một gia đình của một Quốc gia. Họ không có thể nào nhắm mắt làm ngơ để mà bảo vệ một chế độ độc tài trị tham nhũng, hèn hạ, thối nát này được. Một người lính hay một người cảnh sát chân chính, họ sẽ nhìn thấy và nhận xét. Như thế nào là một vai trò của mỗi người công dân sống trong một chế độ độc tài toàn trị của sự gian dối, lường gạt, bịt miệng người dân, để cho một đảng phái lảnh đạo tha hồ thao túng, độc quyền tham nhũng, hối lộ và yếu hèn đang đưa Quốc gia vào thế bị trị của giặc phương Bắc được.


Thanh niên là rường cột của nước nhà Việt Nam
Chứ không phải là rường cột nước nhà Việt- Trung
Mà mang tinh thần bản sắc văn hóa dân tộc
Nồng nàn hữu nghị một nhà nước ta

KN


Freitag, 4. November 2016

Tệ nạn sùng bái cá nhân trong đời sống giáo dục và chính trị

Tệ nạn sùng bái cá nhân trong đời sống giáo dục và chính trị
Trần Ngọc Cư nói:
Xin cám ơn tác giả Đinh Từ Thức đã đưa ra một số dữ kiện khá sòng phẳng về việc Tổng thống Obama bị các phụ huynh bảo thủ phản đối trước khi nhà lãnh đạo Mĩ nói một đôi điều (remarks) với học sinh cả nước nhân ngày tựu trường.
Nhân việc ông Đinh Từ Thức nhắc đến tệ sùng bái lãnh tụ Hồ Chí Minh ở miền Bắc trong thời đất nước bị chia cắt và còn kéo dài đến ngày nay trên toàn dải đất hình chữ S, tôi muốn chia sẻ với các bạn đọc cùng thế hệ với tôi nhưng ở bên kia bờ Bến Hải một bài hát mà chúng tôi phải hát dưới chế độ “Đệ nhất Cộng hoà” trong lễ chào cờ mỗi buổi sáng ở học đường, tiếp theo sau bài Quốc ca (vốn là bài “Tiếng gọi thanh niên” của Lưu Hữu Phước). Lời của bài hát “Suy tôn Ngô Tổng thống”, mà tôi muốn nói đến:
“Ai bao năm từng lê gót nơi quê người
Cứu đất nước thề tranh đấu cho tự do
Người cương quyết chống cộng
Bài phong kiến bóc lột
Diệt thực dân đang rắc gieo tàn phá
Bao công lao hồn sông núi ghi muôn đời
Gương hy sinh ngàn muôn kiếp không hề phai
Toàn dân quyết kết đoàn cùng chung sức với người
Thề đồng tâm xây đắp cho ngày mai
Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng thống
Ngô Tổng thống, Ngô Tổng thống muôn năm
Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng thống
Xin Thượng đế ban phước lành cho người
Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng thống
Ngô Tổng thống, Ngô Tổng thống muôn năm
Toàn dân Việt Nam quyết theo Ngô Tổng thống
Chung đắp xây nền thống nhất sơn hà.”
Rõ ràng là, dù hoang tưởng đến đâu, không ai có thể nghĩ ra một bài “Suy tôn Obama” cho học sinh Mĩ.
Chế độ của nhà “lãnh đạo anh minh” ở miền Nam đã đưa không những tệ sùng bái lãnh tụ mà cả “văn minh Thiên Chúa giáo” vào học đường nữa: Lễ Phục sinh, học sinh được nghỉ học 2 tuần, ngoài việc mỗi ngày “Xin Thượng đế ban phước lành cho người”.
Câu hỏi tôi muốn đặt ra ở đây là, phải chăng trong người Việt chúng ta (cả bên ni lẫn bên tê) có một thiên hướng tôn sùng lãnh tụ, tôn sùng một Big Brother, phù hợp với nỗi khao khát về một đấng minh quân theo truyền thống nhân trị?

Trong một chế độ độc tài trị, đều có một thần tượng giết người để tôn thờ
Ho chi minh ta gọi mãi tên người
Sao cứ giống như bài hát của đảng cộng sản tôn sùng lãnh tụ Hồ Chí Minh thấy phát ghê.
Trong bài hát có câu:
Nếu ai đó hỏi vũ trụ bao la hết thẩy có bao nhiêu mặt trời
Thì tôi nói một nhưng lăng Hà Nội đang giữ một vũ trụ thứ hai.
Câu này thì bán nước rõ ràng;
Một lời kêu gọi bao nhiêu đồng bào anh dũng thể hiện lòng Trung Quốc

Mittwoch, 2. November 2016

BỀ TRÁI CỦA CHIẾC MỀ ĐAY

BỀ TRÁI CỦA CHIẾC MỀ ĐAY
* Tác giả: Phan Ký
* Trích từ: Tuần báo Việt Nam Tự Do số 332 (tháng 2-1986)
xuất bản tại Orange County, California-Hoa Kỳ.
Từ trước đến nay, mỗi khi nói đến nền Đệ I Cộng Hòa Việt Nam thì những kẻ “hậu duệ” của Ngô Tổng thống đã đề cao cái chế độ đó là chính danh chính thống và đổ lỗi mất nước lên đầu người khác.
Rồi hằng năm, cứ mỗi lần đến ngày 1/11 lại là một lần khêu gợi những chuyện đã qua, tưởng làm như thế là đắc sách lắm chứ họ đâu có ngờ đang rơi vào cái bẫy êm ái của Việt Cộng: Gây chia rẽ giữa những người di tản trong đó có nhiều người đã từng là nạn nhân của chế độ Ngô Đình Diệm.
Thật là cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng. Vậy để thêm tài liệu cho dư luận xét đoán về sự liện hệ giữa hai chế độ Đệ I và Đệ II Cộng Hòa, tôi xin nêu lên một vài sự việc của mặt trái nền Đệ I Cộng Hòa như sau đây:
1/ Ông Diệm có phải là một nhà cách mạng không?
Cứ theo lai lịch của ông Diệm thì mới 30 tuổi, ông Diệm đã làm đến chức Thượng thư Bộ Lại (tương đương với chức vụ Thủ tướng hiện giờ). Ai cũng biết dưới thời thực dân Pháp và Nam triều thì chỉ có những kẻ con ông cháu cha, tôi tớ của thực dân mới được cất nhắc thăng quan tiến chức mau lẹ, chứ ai đã có óc cách mạng như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh thì sức mấy mà vô làm quan được chứ đừng nói đến chuyện 30 tuổi làm Thượng thư.
Theo những người biết chuyện thì do sự kèn cựa với ông Phạm Quỳnh thời đó, và tưởng rằng bị vua Bảo Đại làm nhục nên ông Diệm đã từ quan vì bất mãn như là một thứ “dissident” thời bấy giờ. Đến năm 1945, ông Diệm bị Việt Cộng bắt đem giam ở Tuyên Quang, nhờ Hồ Chí Minh thả ra đi qua Mỹ tu ở New Jersey nhưng gặp lúc Mỹ đang tìm người đưa về Việt Nam để đá thằng Pháp nên Mỹ đã nhào nặn ông Diệm thành một tài tử chính trị dưới bàn tay lông lá của Đại tá Lansdale. Trước khi về nước, ông Diệm đã đến Cannes yết kiến ông Bảo Đại và tuyên thệ trung thành với Đức Quốc trưởng. Một năm sau, ông Diệm tổ chức bầu cử gian lận truất phế ông Bảo Đại cho nên ông Bảo Đại đã gởi điện tín về “giải tỏa lời thề ông Diệm!” Và chỉ 10 năm sau, ân oán nhãn tiền, ông Diệm lại bị chính tay chân của ông hạ thủ! Như vậy thì chính danh chính thống ở đâu, hỡi ông Phạm Kim Vinh.
2/ Ai khai sanh chế độ quân phiệt?
Năm 1954, khi ông Diệm mới chấp chánh, ông gọi các ông Tỉnh trưởng ở miền Nam là “ngài Đốc phủ sứ”. Sáu năm sau, ông gọi là “thằng Tỉnh trưởng”. Tôi xin kể một câu chuyện độc đáo liên hệ đến việc nước mà ông Diệm đã xem như việc nhà của ông trong khi ông “thế thiên hành đạo” vào thời kỳ thịnh trị nhất của họ Ngô. Ông Nhu đã tổ chức đoàn thể Thanh Niên Cộng Hòa, một tổ chức ngoại vi của đảng Cần Lao Nhân Vị. Trung tá L. được ông Nhu phái đi các tỉnh để họp bàn cùng các Tỉnh trưởng kế hoạch thực hiện việc huấn luyện ở địa phương, chi phí do ngân sách tỉnh, thị đài thọ hoặc do học viên tự túc. Một số Tỉnh trưởng thấy rằng ngân sách tỉnh, thị eo hẹp không đài thọ nổi mà bắt các học viên thanh niên tự túc thì thất nhân tâm quá vì mỗi thanh niên thường đi làm nuôi cả gia đình còn không đủ ăn, nay lấy tiền đâu mà đi dự khóa huấn luyện Thanh Niên Cộng Hòa 3 tháng, rồi vợ con ở nhà ai nuôi? (ông Cao Xuân Vỹ hiện ở LA nếu đọc được đoạn này không biết có thấy cái sai lầm này trước đây không?) Do đó mấy ông Tỉnh trưởng ấy mới kiếm cách vào trình thẳng cụ để xin cụ xét cho. Không ngờ cụ lại phán rằng: “Các anh Tỉnh trưởng dân sự cứ cứng đầu, để tôi cho mấy thằng quân sự lên làm Tỉnh trưởng nó ỉa trên đầu các anh”.
Rồi thì việc gì phải đến, đã đến. Các Tỉnh trưởng quân sự được đề cử không phải vì tài năng mà vì là người của ông Cố Vấn Sài Gòn, ông Cố Vấn Huế, của Cha Thục, của Cha Luận v.v... nếu không phải là Công giáo thì cũng phải là Cần Lao hay Quảng Bình (quê của ông Diệm). Thời đó, một Trung úy Quận trưởng đã ký tên trên giấy biên lai nhận tiền ở ngân khố bằng hai chữ “Ký Giận” (phiên âm giọng Quảng Bình của chữ “Ký Nhận”). Một Đại úy Tỉnh trưởng Bình Tuy mua cây đã có trái về trồng để trình diễn lấy điểm gạt ông Diệm v.v... Thế thì bảo làm sao các đấng quân sự khác không vỗ ngực cho rằng làm chính trị, hành chánh dễ lắm. Từ đó đảng Kaki chỉ chờ thời cơ để múa gậy vườn hoang, gây tan nát cơ đồ, tội đó bắt nguồn từ ông Diệm đã bắc thang cho chúng leo. Lịch sử không thể nào quên được.
3/ Ai bán gạo cho Cộng Sản:
Trước kỳ bầu cử truất phế Bảo Đại 5/3/55, ông Diệm đã cho đưa gạo từ Sài Gòn ra miền Trung để cứu đói vì giá gạo chợ đen đã tăng vọt từ 600$ một tạ lên đến 1.700$ một tạ. Lúc ấy ở miền Trung có Mễ Cốc công ty là một tổ chức kinh tài của đảng Cần Lao Nhân Vị do mấy thương gia tay chân của ông Ngô Đình Cẩn điều hành với sự hỗ trợ của các Tỉnh trưởng miền Trung và của ông Giám đốc Kinh tế Trung phần Trần Ngọc L. (hiện ở Paris). Nếu bán đúng giá thì các thương gia làm gì có lời nên chúng mới tích trữ đầu cơ, gây cảnh thiếu gạo để bán chợ đen. Thình lình Bộ Kinh tế phái ông Ung Bảo Toàn đưa gạo ra Đà Nẵng tràn ngập thị trường. Các tỉnh thị bèn đánh bài hoãn binh không nhận gạo của Bộ Kinh tế do ông Toàn chở ra, trong lúc cho người đi bán gấp ở thôn quê mà không có kiểm soát nên đã để lọt vào tay Việt Cộng ở Quảng Ngãi, rồi đổ hô cho ông Toàn bán gạo cho Việt Cộng. Thử hỏi thời ấy cả một hệ thống công an, cảnh sát chìm, nổi như vậy làm gì mà để một mình ông Toàn bán gạo cho Việt Cộng ngay ở thương cảng Đà Nẵng (vì ông Toàn chỉ đặt văn phòng ở Đà Nẵng). Khi ra tòa án, ông Toàn yêu cầu cho xem bao gạo đó của Mễ Cốc công ty ở địa phương, chứ các bao gạo của Bộ Kinh tế ông chở ra đều có đóng dấu hai chữ EN (Economie Nationale).
Tối hôm đó, cả hai ông chánh án Thân Trọng Th. và đại diện Bộ Tư Pháp Lâm Lễ Tr. đi Huế trình ông Ngô Đình Cẩn để xin chỉ thị. Kết quả tòa tuyên án xử tử hình ông Toàn, sau ông Diệm đổi thành án chung thân và đày đi Côn Đảo.
Sau vụ này, ông Th. được thăng chức Đại biểu Chính phủ Cao Nguyên Trung phần, còn ông Tr. thăng chức Bộ trưởng Nội vụ. Đấy, công lý của nền Đệ I Cộng Hòa sáng chói như vậy.
Đó là chưa kể đến cái vụ ông Cẩn và ông Lê T. (Tỉnh trưởng) đã đẩy Nguyễn Hữu Thọ đến chân tường bằng những xảo quyệt ti tiện chụp mũ Thọ hiếp dâm nữ y tá để Thọ phải theo Việt Cộng trong lúc Thọ đã chịu nghe lời cựu phó T.T. Nguyễn Ngọc Thơ, làm đơn xin trở về Sài Gòn làm ăn lương thiện.
4. Ông Diệm là Tổng thống nước Việt Nam hay là Tổng Giám mục Công Giáo địa phận Việt Nam?
Nếu ai gần gũi ông Diệm mới thấy ở trong con người ông ấy cái tinh thần yêu Chúa đã lấn át tinh thần yêu nước của ông. Ngay từ đầu, lúc làn sóng di cư ồ ạt từ Bắc vô Nam kéo theo một số đảng viên Quốc Dân Đảng, Đại Việt v.v... Họ đã nguyện đem bầu nhiệt huyết ra phục vụ quốc gia nhưng sau khi trình bày kế hoạch chống Cộng với ông Diệm thì ông hỏi “các anh có phải là người Công giáo không?” Mấy đảng viên kia trả lời “không” thì ông Diệm chắc lưỡi “tiếc quá”. Vào khoảng năm 1960, ông Diệm đã bỏ ra 3 tiếng đồng hồ thuyết phục một ông Tỉnh trưởng theo Công giáo và đem mồi Bộ trưởng Kinh tế ra dụ dỗ. Ông Tỉnh trưởng ấy sau một hồi suy nghĩ đã khẳng khái trả lời: “Cụ bảo gì tôi cũng có thể làm được, nhưng bỏ đạo Phật để theo đạo Công giáo thì chỉ sợ con cháu nó chê cười” (hiện ông Tỉnh trưởng này còn sống ở LA). Vậy thì bảo làm sao đa số tay chân của ông các cấp không kỳ thị tôn giáo được? Nhưng đừng tưởng Công giáo là thành trì chống Cộng vững chắc, Cộng Sản không len lỏi vào được. Trái lại chỗ nào đông người là có Cộng Sản len lỏi vô, trong các đoàn thể cũng như trong các cơ quan, quân đội. Năm 1959, tại một tỉnh miền Trung, công an đã bắt được một tu sĩ Công giáo tuyên truyền chống Mỹ-Diệm. Công an về lục soát trong phòng ông tu sĩ đó thấy đầy rẫy truyền đơn, hình Hồ Chí Minh v.v... bèn lấy đưa cho ông Tỉnh trưởng sở tại đem vô trình gấp ông Diệm kẻo để lâu sợ ông Cẩn thủ tiêu. Vì ông tu sĩ đó là người của ông Cẩn.
5/ Kỳ thị tôn giáo:
Theo chỗ tôi biết thì ông Diệm không có kỳ thị tôn giáo mặc dù ông cũng muốn dụ người ta vô Công giáo. Tuy nhiên trong vụ Phật giáo xuống đường, ông Diệm đã hành động chậm trễ, thiếu chính trị sáng suốt mà có người nói là vì ông Nhu cản trở. Lý do khi vụ đó xảy ra, ông Diệm muốn ra Huế phủ dụ nhân dân dàn xếp trực tiếp cho yên chuyện nhưng ông Nhu bảo rằng việc đó có gì quan hệ, sai ông Bùi Văn Lương ra nói cũng được. Ông Lương với tư cách Bộ trưởng Nội Vụ thời ấy cũng chỉ ra đến Đà Nẵng gặp đại biểu Chính phủ rồi đi về. Nội vụ càng kéo dài, cánh cửa quốc gia càng mở rộng cho Việt Cộng len lỏi đột nhập phá hoại hàng ngũ quốc gia, gây nên một tình trạng xáo trộn nguy hiểm mà ông bà Nhu và ông Cha Thục vẫn dương dương tự đắc chế dầu vào lửa để tự đốt mình và đốt cả gia đình họ Ngô, luôn cả chế độ Đệ I Cộng Hòa, rồi bây giờ đổ hô Phật giáo là Cộng Sản. Thử hỏi ông Diệm là Tổng thống mà ông để sự việc xảy ra từ bé xé ra to chỉ vì lá cờ Phật giáo thì trách nhiệm và tài kinh bang tế thế của ông ở đâu? Tôi không bênh Phật giáo, tôi chỉ chê trách ông Diệm ở giai đoạn lịch sử này đã làm không đúng vai trò lãnh tụ, không còn sáng suốt để kết hợp các đảng phái quốc gia, chia xẻ nhiệm vụ cứu quốc và kiến quốc mà chỉ là một kẻ độc tài, ai nói gì cũng nghe còn cho mọi người đều bị đầu độc, kể cả dư luận quốc tế đến nỗi ông Diệm phải phái bà Nhu đi giải độc kia mà! Trong lúc đó bọn Lê Quang Tung, Dương Văn Hiếu, tại Thị Nghè tổ chức cả ngàn tên đầu trộm đuôi cướp, cho cạo trọc đầu và mặc áo vàng làm thầy tu giả để phỉnh gạt hoan hô ông Diệm khi ông đến chùa Xá Lợi sau ngày ông Nhu tổng bố ráp các chùa, gây cảnh nồi da xáo thịt. Lỗi đó tại ai? Với lý thuyết Mác Xít, quốc gia Việt Nam đã mất bắt đầu từ thời đó, không phải lỗi ở Phật giáo mà lỗi ở ông Tổng thống không anh minh chút nào nữa. Nên nhớ ông Tổng thống thứ hai Nguyễn Văn Thiệu là người Công giáo.
6/ Nạn nhân của thuyết Cần Lao Nhân Vị:
Những trí thức xa lông như Phạm Kim Vinh đã từng cho chỉ có chế độ Ngô Đình Diệm với thuyết Cần Lao Nhân Vị mới có thể đương đầu với lý thuyết Mác Xít của Cộng Sản, nhưng thử hỏi người dân đã nhìn lý thuyết nhân vị đó như thế nào? Họ thấy chả có gì khác với Cộng Sản trong việc thi hành ở địa phương, nào là thủ tiêu, ám sát, bắt cóc bất cứ ai, dưới nhiều cái mũ khác nhau như thân Pháp, thân cộng chỉ vì không tôn sùng Ngô lãnh tụ anh minh hoặc giành giật công ăn việc làm của các đảng viên Cần Lao hay là của bà con họ hàng nhà Ngô. Dân chúng sống trong khiếp sợ, chán nản vì phải ở giữa hai lằn đạn Cần Lao và Cộng Sản. Dân chúng đã mỉa mai những kẻ vô Cần Lao là để được “cao lần” vinh thân phì gia chứ chẳng phải vì nước vì dân gì cả. ở Sài Gòn, ông Diệm xây vườn Phượng Hoàng, ở Huế ông Cẩn xây lăng Chín Hầm. Những nạn nhân của “chín hầm” hiện còn sống ở LA trong đó có cụ Bửu Bang, cứ hỏi cụ Nhân Vị ở Chín Hầm ra sao thì rõ. Nó có khác gì những trai học tập thời nay của Việt Cộng không? hay là còn quá hơn thế nữa vì người bị giam phải đứng dầm chân dưới hai tấc phân (cức) suốt ngày đêm.
Trên đây tôi chỉ kể lại một phần các sự việc tôi biết, chứ thật ra thì còn nhiều nữa. Oan hồn ẩn khuất đã hiện về tiêu diệt cả một dòng họ Ngô bất đắc kỳ tử ngoại trừ ông Luyện và vợ ông Nhu.
Vậy thì nói như ông Ngô Đình Luyện (trong bài phỏng vấn của ông Long Ân đăng trong báo Hồn Việt số 262 rằng là “nếu sự hiện diện của tôi (ông Luyện) hôm nay (kỷ niệm ngày ông Diệm chết) được khoác cho một ý nghĩa nào, tôi (ông Luyện) muốn ý nghĩa đó phải là biểu tượng cho tinh thần đoàn kết dân tộc”. Chứng tỏ ông Luyện đã có một sự hiểu biết nào đó về hậu quả các hành động của ông Diệm đã đưa nước Việt Nam đến ngày nay.
Thật ra sở dĩ ông Diệm đã trở nên độc tài, mù quáng vào phút chót của đời ông là vì ông đã bị đám tay chân bộ hạ thần thánh hóa ông, bịt mắt ông chứ ông chả có ý nghĩa thế thiên hành đạo gì cả.
Để có thể đoàn kết dân tộc như lòng mong ước của ông Luyện, tôi thiết tưởng đừng có nhắc lại chuyện cũ, chưởi bới nhau nữa đổ hô vì Phật giáo, vì Mỹ, vì ai cả, mà phải tự nhận là vì chính mình đã không có can đảm đứng ra làm việc nước lúc đó.
Chúng ta trước đây đa số đã giao khoán việc chống Cộng cho ông Diệm, sau này cho ông Thiệu thì bây giờ đừng có tiếc cái thời vàng son đó nữa vì lúc này là lúc phải làm chứ không phải để nói cho nghe rồi bỏ qua. Chỉ có những ai dám làm, dám dấn thân thì tiếng nói đó mới có giá trị, rồi theo luật đào thải, thời gian sẽ sàng lọc được người lãnh tụ xứng đáng, chứ đừng có như mấy ông tấn sĩ trí thức xa lông dù có viết bao nhiêu cuốn sách chưởi đổng thì cũng chỉ vạch áo cho người xem lưng là các ông trước đây cũng như bây giờ chỉ là những tên đồ gàn của thời Tần Thủy Hoàng còn sót lại.
Phan Ký
BẤT ĐẮC DĨ KHƠI ĐỐNG TRO TÀN
* Tác giả: Lê Nguyên Long
* Trích từ: Tạp chí Khai Phóng số 7 (tháng 12/1981)
xuất bản tại Los Angeles, California-Hoa Kỳ.
LTS: Tác giả bài này là một nhân sĩ miền Trung, lãnh tụ Việt Quốc vùng Nam Ngãi. Trưởng thành qua những thời đại Phong kiến, Độc tài, Cộng Sản. Ông đã là chứng nhân của lịch sử cận và hiện đại. Bài viết của ông sau đây, dù thuộc về một đề tài vốn đã được nói nhiều nhưng vì tính cách chứng nhân đó của tác giả mà nó vẫn có cái giá trị riêng biệt của nó - cần thiết cho một cái nhìn đúng đắn về lịch sử.
Cố Tổng thống Ngô Đình Diệm bị hạ sát cách đây đã gần hai thập niên, sự việc đã chìm vào quên lãng, đáng lẽ những ân oán xa xưa chẳng nên đề cập, nhưng hơn vài năm nay nơi hải ngoại, một vài tổ chức đã phát động phong trào suy tôn ông Diệm. Một vài tờ báo đã đề cao ông Diệm như: “Lịch sử đã ghi tên Ngô Đình Diệm là một vĩ nhân cận đại, lịch sử đã ghi nhận Ngô Đình Diệm là một nhà đại ái quốc, một người Việt Nam kiêu hùng, một cứu tinh của dân tộc v.v...” và đã có nhiều kẻ từng thừa hưởng đỉnh chung của nhà Ngô đã lập luận: “Nếu ông Diệm không chết thì chúng ta đã không mất nước!”.
Kẻ viết bài này thật sự luôn luôn thiết tha với tình tự đoàn kết quốc gia dân tộc, không muốn khơi lại đống tro tàn ô uế dĩ vãng... Đã bỏ nước đau khổ lưu vong thôi thì tất cả ai cũng chống Cộng là đồng chí, là anh em... nhưng thiết nghĩ Sự Thật chẳng thể bẻ cong, nhất là sự thật lịch sử phải trả cho lịch sử.
Lịch sử Việt Nam không thể gọi vua Long Đỉnh Ngọa Triều là anh quân, Mạc Đăng Dung là ông vua anh hùng, Lê Chiêu Thống là ông vua cứu nước.
Vậy thì sự thật như thế nào về thời Ngô Đình Diệm phải được minh định để trả sự thật về cho lịch sử.
Từ ngày được Hồng Y Spellman đỡ đầu, được Chính phủ Eisenhower ủng hộ, được Quốc trưởng Bảo Đại chấp nhận, ông Ngô Đình Diệm từ Hoa Kỳ về chấp chánh ở Việt Nam năm 1954, trong khi Hiệp định Genève sắp kết thúc, (tháng 7-1954).
Lúc đó, lòng dân thật tình hướng về ông Ngô Đình Diệm. Người ta đã nghĩ ông Diệm sau khi từ quan, chu du ngoại quốc, chắc hẳn là một nhà lãnh đạo quốc gia xứng đáng.
Hầu hết các phe phái và các nhân vật quốc gia đã nồng nhiệt tin tưởng và kỳ vọng ở ông Diệm.
Nhưng chỉ sau một thời gian ngắn cầm quyền, chủ trương độc tôn, độc tài, phản bội, lật lọng, phong kiến, thối nát, bất lực, kỳ thị của nhà Ngô đã lần lượt thể hiện... Khiến những người vốn tích cực ủng hộ ông Diệm, đến những người vô tư khách quan với ông Diệm lần lượt đứng lên chống đối và nhà Ngô đã dùng thủ đoạn sắt máu đàn áp để củng cố địa vị suốt 9 năm cầm quyền.
Có thể nói trừ chế độ Cộng Sản ra, chưa có một chế độ nào ở Việt Nam đã đàn áp, thủ tiêu, ám sát, bắt cóc, tra tấn, cầm tù hàng vạn người quốc gia cũng như các tu sĩ các tôn giáo như thời Diệm.
Trừ Cộng Sản ra, chưa có một chế độ nào đã thẳng tay đàn áp đối lập để củng cố địa vị như chế độ ông Diệm. Chưa có một chế độ nào phản dân chủ và khinh thị lợi dụng nhân dân làm cái bung xung để hợp thức hóa các chức vụ theo ý muốn của mình bằng cách tổ chức những cuộc bầu cử gian lận như chế độ ông Diệm.
Tất cả những ai chỉ ở thủ đô hoặc các thành phố lớn khó lòng thấy rõ chánh sách gian ác, hành động bất nhân, phản dân hại nước của chế độ Diệm, mà phải quan sát ở các tỉnh, quận, nông thôn (90% lãnh thổ toàn quốc) mới thấy rõ tội ác của tay chân nhà Ngô một thời... mà có người đã nói: Trúc Nam Sơn không thể chép hết tội, nước muôn sông không thể nào rửa hết nhơ!
Rõ ràng ông Diệm đã có một cái may mắn mà chưa có một nhân vật lãnh đạo quốc gia nào sau 1945 được cái may mắn như ông kể từ Chính phủ Nguyễn Văn Xuân, Nguyễn Phan Long, Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn Tâm đến Bửu Lộc là: Đất nước đã tạm chấm dứt chiến tranh, dân tình phấn khởi bồng bột ủng hộ người lãnh đạo và được ngoại viện dồi dào như ông Diệm.
Ông Diệm cầm quyền sau Hiệp định Genève, khoảng 6 năm trời từ 1954 đến 1959 miền Nam không có chiến tranh và chưa có Cộng Sản hoạt động đáng kể. Từ thành thị đến thôn quê quốc gia có thể kiểm soát chặt chẽ khắp hang cùng ngõ hẻm.
Đại đa số dân chúng nông thôn ở các vùng Cộng Sản chiếm từ trước như Nam, Ngãi, Bình, Phú chẳng hạn, đã chán ngấy thù ghét Cộng Sản và đều ngã về Quốc gia. Ông Diệm còn có một kho cán bộ kinh nghiệm chống Cộng, vốn mắc kẹt trong vùng Cộng Sản hoặc một số lớn thị thành, vì mặc cảm làm việc cho Pháp, đã “trùm chăn”, nay vươn mình đứng lên tích cực ủng hộ cho Ngô Thủ tướng.
Lúc ấy ở miền Trung có hàng nghìn cán bộ không cần làm việc có lương nhiều, chỉ sao đủ sống đạm bạc để hoạt động chống Cộng là họ thỏa chí.
Bao năm khổ đau sống trong tăm tối của Cộng Sản, nay ánh sáng quốc gia rọi về, họ hứng khởi đứng dậy, lửa chống Cộng bừng bừng, khí thế Cộng Sản lụi tàn.
Nhưng ngay lúc đó, ông Diệm và tay chân của ông lo diệt người Quốc gia hơn là Cộng Sản, một thời cơ thuận lợi để nắm dân ông Diệm đã đánh mất!
Những cuộc bầu cử như Trưng Cầu Dân ý truất phế Bảo Đại, bầu cử Quốc Hội Lập Hiến, Lập Pháp, Tổng thống đều hoàn toàn gian lận vi luật trắng trợn.
Ông Diệm đã hạ lệnh cho quân đội tấn công Hòa Hảo, Cao Đài vốn là những lực lượng chống Cộng, hữu hiệu từ 1945 đến bây giờ và nếu ông Diệm không độc tôn đã có thể đoàn kết thu hút họ.
Ông đã lường gạt tướng Lê Quang Vinh, người hùng Nam Bộ, từng lập chiến khu chống cả Pháp lẫn Cộng về hợp tác, rồi bắt chặt đầu.
Cái chết bí mật của tướng Cao Đài Trình Minh Thế cũng trong nghi vấn là ông Diệm đã giết.
Và, ác nghiệt hơn cả, nhà Ngô đã tuyển chọn quân đội người Nùng - một binh chủng thiện chiến say máu - thời bấy giờ, và các chỉ huy trưởng có đảng tịch Cần Lao cầm quân vào các chiến khu Quốc Dân Đảng ở miền Trung với ác lệnh: giết sạch. Sự tấn công vào các chiến khu Quốc Dân Đảng còn tàn độc hơn hồi giặc Pháp đi “càn quét” nhiều. Đốt thực phẩm đốt nhà, tra tấn giết người một cách tàn ác đã xảy ra ở Quế Sơn, Tiên Phước, Duy Xuyên v.v... vào những năm 1955-1956.
Với lối tấn công ấy, nhà Ngô đã phá vỡ được chiến khu Ba Lòng của Đại Việt, nhưng không thể tiêu diệt các chiến khu Quốc Dân Đảng.
Thuở đó quân du kích Quốc Dân Đảng Nam Ngãi đã giáng cho chính quyền địa phương Diệm nhiều đòn chí tử.
Biết rõ không thể tấn công để thủ thắng, cuối cùng Ngô Đình Cẩn, bào đệ ông Diệm, lập kế mời về hợp tác. Làm kế phỉnh gạt, hơn 2000 nghĩa binh Quốc Dân Đảng kéo về với đầy đủ vũ khí và làm lễ hợp tác tại Hội An cuối năm 1956. Nhưng sau đó bọn họ đều bị thủ tiêu và lần lượt bị bắt đi mất tích. (Khi ông Diệm đổ, một số trong bọn họ đã được thả ra, nhưng đều thân tàn ma dại).
Thiết tưởng kẻ viết cần trình bày rõ là Quốc Dân Đảng miền Trung lúc đầu ủng hộ ông Diệm tích cực. Họ đã lên án Nguyễn Văn Hinh và ủng hộ ông Diệm để chống Cộng. Họ đã có cán bộ giữ chức vị Tỉnh trưởng và Quận trưởng ở hai tỉnh lớn Nam Ngãi (Quảng Nam Tỉnh trưởng Lê Trung Chi, Quảng Ngãi Phạm Đình Nghị). Phong trào tố Cộng ly khai Cộng Sản, xé đảng kỳ Cộng Sản, bắt đầu tháng 10-1954 do họ tiên khởi phát động ở Quảng Nam rồi sau mới lan ra toàn quốc, nhưng tay chân nhà Ngô nhận định: Nếu để uy thế Quốc Dân Đảng miền Trung lan tràn thì Phong trào Cách mạng Quốc gia và đảng Cần Lao Nhân Vị do nhà Ngô đẻ ra sẽ tuyệt địa. Nên ông Diệm bất thần giải chức các Tỉnh trưởng và bắt giam hàng loạt các Quận trưởng Quốc Dân Đảng ở hai tỉnh Nam Ngãi và mật lệnh triệt hạ toàn bộ Quốc Dân Đảng (lại vu cáo Quốc Dân Đảng theo Pháp).
Và, vì cớ ấy, khoảng tháng 3-1955 Quốc Dân Đảng miền Trung lập chiến khu để tự vệ và để quật khởi chống Diệm.
Trong suốt 9 năm ông Diệm cầm quyền, thời gian đó ở nông thôn cơ quan nào cũng có thể bắt người. Công an bắt người, Xã trưởng bắt người, Cách Mạng Quốc Gia (phong trào đẻ ra từ nhà Ngô) cũng bắt người rồi giao cho Công an trừng trị. Nhưng ghê tởm nhất là đoàn “Mật Vụ Miền Trung” do Ngô Đình Cẩn đỡ đầu. Đó là đoàn hung thần toàn quyền sinh sát.
Đoàn có quyền đi khắp nơi, đến đâu địa phương phải tiếp rước chu đáo. Đoàn cần bắt ai thì giao cho Công an đi bắt bất kỳ đêm ngày. Nếu tra tấn chết thì Quận trưởng và Công an phải lập biên bản hợp thức hóa sự chết và bị bắt không cần phải có chứng cớ chỉ bị nghi chống Chính phủ là bị bắt. (Tại Long Beach, California có một đồng hương từ ngày vào đất Mỹ đến nay, vẫn nằm bẹp ở nhà, vì bệnh cũ tái phát, hậu quả của sự tra tấn tàn độc của mật vụ Diệm).
Hầu hết viên chức chính quyền từ Quận trưởng, Ty trưởng, Tỉnh trưởng ở miền Trung được bổ dụng thời đó, không phải vì khả năng chuyên môn hay tài đức, mà vì lòng trung thành hay mức quỳ lụy cao thấp đối với gia đình nhà Ngô thôi.
Phần lớn viên chức chỉ huy cấp Tỉnh, Quận được bổ dụng do một người ở hậu trường định đoạt. Đó là ông Ngô Đình Cẩn, bào đệ ông Diệm, với chức vụ “Cố vấn Chỉ đạo” Phong trào Cách mạng Quốc gia (chức vụ này trên danh nghĩa là một tổ chức nhân dân, nhưng trên thực tế là quyền quyết định tối hậu) cũng như ở miền Nam thì do vợ chồng ông Nhu định đoạt.
Cũng vì lối bổ dụng đặc biệt này mới có tên Nguyễn Văn Tất nguyên là hương bộ thôn thời Pháp thuộc, nghiễm nhiên thành Tỉnh trưởng Quảng Ngãi; Lê Gia Quyến, cán bộ phù động hạng chót, bỗng nhiên là Quận trưởng Trà Bồng. (Hai tên này khi Diệm đổ thì bị bắt) và còn hàng chục hàng trăm trường hợp bổ dụng tương tự kể sao cho xiết.
Cũng vì lối bổ dụng này mới có tên Thái, Quận trưởng Điện Bàn, mỗi khi đi hành hạt có điều phật ý là cầm “ba tông” đánh xả lên đầu viên chức xã. Cũng vì lối bổ dụng này mà các Tỉnh, Quận trưởng mỗi khi về chầu hầu ông Cố vấn chỉ đạo, ông đều xem như tôi tớ, xưng hô “mày tao” nhưng bọn vô liêm sỉ này vẫn gật đầu vâng dạ và xem sự điếu đóm chầu hầu “cậu” là một diễm phúc có hy vọng thăng quan tiến chức hoặc giữ vững địa vị.
Trước 1954 các Xã trưởng đều được dân bầu, nhưng thời Diệm đã bãi bỏ bầu cử các viên chức Xã. Lại cho quyền Quận trưởng đề nghị lên Tỉnh trưởng bổ dụng hoặc cách chức viên chức xã, ấp. Vì thế các Xã trưởng, ấp trưởng là những tôi tớ của Quận, Tỉnh hoàn toàn không phải của dân. (Điểm này phải khen ông Diệm thành thật. Tuy phản bội nguyên tắc dân chủ trắng trợn, nhưng lại có minh văn. Nghị định bãi bỏ bầu cử xã 1956).
Vì bộ máy chính quyền gồm toàn tay sai, tổ chức theo lối gia nô hóa cho nhà Ngô như vậy, cho nên đã gây ra bao nhiêu tham nhũng bất công, tang tóc, tù đày cho lương dân vô tội nơi nông thôn. Mỗi một chính sách của nhà Ngô đưa ra là dân chúng kinh hoàng.
Quốc sách Dinh Điền nghe thuyết trình thì thật hay nhưng thi hành thì lệch lạc sai quấy.
Cán bộ Xã, Ấp cứ nhằm những người mình thù ghét hoặc cần làm tiền thì ép buộc phải đi dinh điền. Thế cho nên ở một vài tỉnh đã có người tự tử vì bị ép buộc. Còn những người chịu đi Dinh Điền, khi đến nơi lại bị cán bộ dinh điền hành hạ, đối xử bất công, ăn chận của cấp phát v.v... nhiều sự không tốt xảy ra khiến họ chán nản trốn về, vì vậy tỉnh nào cũng có người ở tù vì chống phá quốc sách dinh điền.
Quốc sách Dinh Điền của nhà Ngô trừ một vài vùng tương đối thành công, còn phần lớn, hàng chục vùng Dinh Điền khác đều thất bại hoàn toàn. Dân chúng lũ lượt trốn về quê, rồi bị bắt bớ đánh đập đã tổn phí tiêu hao không biết bao nhiêu công quỹ!
Nhà “lãnh đạo anh minh” có lần đi kinh lý một vùng dinh điền nhìn thấy những cây ăn trái được trồng trọt tốt tươi, ngay thẳng, ông ta ban khen, nhưng chính đó là những nhánh cây vừa được chặt cắm xuống đất trong ban đêm, do sáng kiến của khu trưởng Dinh Điền chào mừng Tổng thống.
Về Quốc sách Ấp Chiến Lược là một quốc sách vô hiệu, nhưng đã làm phiền nhiễu hành hạ dân chúng không thể kể xiết.
Ấp Chiến Lược trước hết là phải rào làng-Xã, Ấp bằng nhằm vào những nhà có của khá giả trong làng đe dọa sẽ bỏ ra ngoài vòng rào vì những lý do “tiện” hoặc “bất tiện” theo ý của họ. Thế là màn trà nước van xin được diễn ra (vì bỏ ra ngoài rào là chết). Rồi đến khi rào làng, thì dân chúng phải tự nai lưng ra tìm kiếm vật liệu như tre, gai, cọc gỗ v.v... và bỏ công đi rào ngày này qua ngày nọ. Còn quỹ Ấp Chiến Lược do Mỹ viện trợ phần nhiều do Tỉnh trưởng, Quận trưởng chia nhau bỏ túi hoặc làm kinh tài cho “Cậu”. Sự rào các Xã cho đúng tiêu chuẩn là một điều kiện khó khăn mà dân làng không đủ sức vì quá tốn kém. Vì vậy Ấp Chiến Lược chỉ được rào kỹ một vài đoạn bề mặt để trình diện và để báo cáo. Còn lại, thì chỉ rào sơ sài, ai ra vào cũng được. Nhưng mỗi tháng một lần, Xã, Ấp lại đốc xuất dân kiếm vật liệu như tre, gai đi tu bổ. Người dân biết rõ ràng rào Xã, Ấp như kiểu họ đang làm là một điều vô ích, chẳng ngăn ngừa gì được Cộng Sản, nhưng phải bỏ công đi rào vì không thể không tuân lệnh.
Trên đây là một vài nét điển hình về những quốc sách kỳ công của ông Diệm.
Thời Ngô, những sự xây dựng cơ cấu dân chủ như bầu cử Quốc hội, Tổng thống là những Trò Hề. Khi chưa bỏ phiếu người dân đã biết rõ ai trúng ai trật một cách chắc chắn.
Một Dân biểu thời Ngô, người Thừa Thiên, được chỉ định ra ứng cử tại Quận Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam có cái tên mà dân chúng địa phương không biết y là đàn ông hay đàn bà vẫn đắc cử với số 99% với số phiếu. Đó là ông Lâm My Bạch Tuyết. (Dân biểu này có liên quan trong một vụ buôn gạo của Ngô Đình Cẩn cho Cộng Sản Bắc Việt, bị bắt quả tang, nhưng Tòa án không giám xử).
Dân chúng Ninh Thuận vẫn còn nhớ trong năm 1956, ứng cử viên Dân biểu đơn vị Ninh Thuận là ông Trần Trung Dung, cháu rể ông Diệm, từ chức Thứ trưởng Quốc phòng để ra ứng cử. Khi ra Ninh Thuận “tranh cử”, ứng cử viên Trần Trung Dung đã được Tỉnh trưởng Ninh Thuận Hồ Trần Chánh tổ chức một cuộc tiếp rước linh đình trọng thể. Dân chúng và học sinh đứng hai bên đường từng đoàn từng đoàn từ ga Tháp Chàm về đến tỉnh lỵ Phan Rang để hoan hô ứng cử viên. Khi ông Dung bước lên diễn đàn để tuyên bố: “Ngày trước Ngô Tổng thống cai trị ở đây, ngài biết rõ dân tình ở đây nên nhờ tôi ra ứng cử ở địa phương này để có thể đạo đạt nguyện vọng nhân dân lên Tổng thống v.v...”
Rồi sau đó ứng cử viên Dung được tiếp rước về nhà Công quán của Tòa Hành Chánh Ninh Thuận có lính hầu hạ canh gác trước sau. Chưa bỏ phiếu, dân Ninh Thuận đã biết chắc ông Dung sẽ đắc cử 99% số phiếu.
Ai cũng chưởi ông Thiệu độc diễn. Nhưng sự độc diễn của ông Thiệu còn thật thà hơn ông Diệm, là khi ông Diệm ứng cử nhiệm kỳ 2 (1961) có các ông Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Đình Quát dàn cảnh.
Mỗi lần ông Quát, ông Truyền đọc diễn văn tranh cử trên đài không có ai nghe được gì hết vì đài bị phá. Cán bộ các ông ấy đi về các tỉnh vận động liền bị Công an tổ chức những nhóm anh chị du côn hăm dọa họ xin tý huyết.
Khắp nơi, ngày bỏ phiếu họ trốn về không dám ở lại các tỉnh. Vậy mà sau khi kiểm phiếu Quận trưởng, Xã trưởng phải... chịu khó tráo sửa biên bản để Ngô Tổng thống được 95% số phiếu.
Về kinh tế, tất cả tài nguyên từ trên núi xuống bể, mọi dịch vụ tài chánh từ Quảng Trị đến Cà Mâu, thượng vàng hạ cám, đều do tay chân quyến thuộc nhà Ngô bao thầu, thao túng, chiếm đoạt khai thác.
Người viết không muốn bẩn bút nhắc đến những ai trong thân tộc hoặc tay chân Ngô triều vốn là Tay trắng chỉ trong vài năm “làm kinh tài cho đoàn thể” đã trở nên triệu phú kếch xù!
Ông Diệm nói chống Cộng nhưng tất cả việc làm của Ngô triều đều bắt chước Cộng Sản. Cộng Sản bắt dân suy tôn Hồ Chí Minh thì ông Diệm cũng bắt dân suy tôn mình. Cộng Sản có Quốc Hội bù nhìn, thì ông Diệm cũng tổ chức một cái Quốc Hội nghị gật tay sai. (Quốc Hội gì mà cả một khóa họp chỉ ê a thảo luận các luật gia đình để có lợi cho bà “Đệ Nhất Phu Nhân”?)
Cộng Sản có cái đảng Lao Động làm nòng cốt, Mặt Trận Cứu Quốc Liên Việt làm ngoại vi, thì ông Diệm cũng có cái Đảng Cần Lao làm cốt và Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia, Tập Đoàn Công Dân, Phụ Nữ Liên Đới làm ngoại vi. Nhưng có một điều khác là Cộng Sản, từ Đảng đẻ ra chính quyền, còn ông Diệm thì có chính quyền rồi mới dùng nhân sự, phương tiện của chính quyền đẻ ra Đảng. Nên tất cả tổ chức của ông Diệm chỉ là bèo bọt, chính quyền đổ thì đảng đổ theo.
Cộng Sản độc quyền ái quốc, ai khác mình là phản động Việt gian, thì ông Diệm cũng độc quyền chống Cộng, ai khác mình là Cộng Sản phải giết!
(Đã biết bao người chống Cộng, từng bị Cộng Sản giam cầm, đến khi ông Diệm cầm quyền thì hồ sơ của họ trở thành là những người hoạt động cho Cộng Sản! Biết bao đảng viên Quốc Dân Đảng, Đại Việt, Duy Dân một sớm một chiều hồ sơ của họ biến thành Cộng Sản di hại cho họ mãi sau khi ông Diệm đổ).
Cộng Sản có chủ thuyết Mác Xít, giai cấp đấu tranh thì ông Diệm cũng ráng nặn ra cái chủ nghĩa nhân vị nhưng hoàn toàn vô vị... (vô vị vì ngoài tay chân ông Diệm ra toàn dân có ai để ý hoặc tìm hiểu các thuyết nhân vị là gì đâu?)
Cộng Sản có hiến pháp nhưng không bao giờ thực thi, thì ông Diệm cũng bắt chước mà dẫm nát lên Hiến Pháp của mình.
Tự do đi lại, hội họp, ngôn luận v.v... những quyền tối thiểu ấy có ghi trong Hiến Pháp, nhưng suốt 9 năm ông Diệm cầm quyền có bao giờ thực thi đâu?
Báo chí thời Diệm trừ tờ Thời Luận của ông Nghiêm Xuân Thiện bị đóng cửa đưa ra Tòa và tờ Tân Dân của Cụ Lộc phải đình bản, còn tất cả đều nói theo luận điệu của đài Sài Gòn. Thế cho nên bao nhiêu hành vi gian ác bất lương, tham nhũng của tay chân cán bộ nhà Ngô có bao giờ được công khai phanh phui như trong các Chính phủ khác?
Từ xưa đến nay chưa có một vị lãnh đạo quốc gia nào làm phiền nhiễu dân chúng như ông Diệm. Mỗi lần ông Diệm đi kinh lý một tỉnh nào thì toàn dân tỉnh ấy phải chuẩn bị cơm nước từ khuya, quần áo tươm tất, đi bộ lên tỉnh để cầm cờ tung hô ông Diệm. (Gia đình nào không có lý do chính đáng mà vắng mặt sẽ bị Xã, Ấp ghi vào sổ đen rất nguy hiểm). Còn các cơ quan Hành chánh, Quân sự Tỉnh, Quận được huy động tối đa trong việc đón tiếp. Phải bố trí công an chìm nổi, phải tổ chức huấn luyện cho những người đứng gần ông Diệm thưa bẩm những gì... phải dàn cảnh sao cho xôm tụ, cho Tổng thống hài lòng. Thành thử dù nghìn lần đi kinh lý, ông Diệm chỉ thấy cái giả dối, hào nhoáng bề ngoài, làm gì biết được ẩn tình dân chúng bên trong.
Thời gian ông Diệm cầm quyền ở nhiệm kỳ I, trong nước chưa có chiến tranh nhưng mọi tự do đều bị bóp nghẹt: không có giấy chứng nhận đi bầu cử thì không được ra khỏi làng để đi chợ.
Có một điều kỳ lạ tại sao ông Diệm lại bãi bỏ Lễ Tổ Hùng Vương? nhưng có người mách: điều kỳ lạ này có thể hỏi Đức Cha Cố Vấn cho ông Diệm.
Về việc kỳ thị tôn giáo, bản thân kẻ viết không muốn nhắc đến. Chỉ mong sao các tôn giáo hiện tại tâm thành Đoàn Kết trước quốc thù Cộng Sản vì tất cả các tôn giáo đều đã bị đại khủng bố ở quê nhà.
Nhưng vì có kẻ biện hộ ông Diệm đã nói: Họ chưa thấy ông Diệm ký một sắc lệnh nào nâng đỡ ưu tiên cho Công giáo hay bóp nghẹt Phật giáo mà gọi là kỳ thị?
Vụ tranh đấu Phật giáo đâu phải bất thần nổ ra từ Phật Đản 1963 mà nó đã tiềm tàng âm ỉ từ nhiều năm về trước. Thời ông Diệm tại miền Trung, mỗi tỉnh có một vị Linh mục hầu như cố vấn và giám sát Tỉnh trưởng. Những Tỉnh trưởng nào dù lương hay giáo, nếu có hành vi trái ý vị Linh mục thì rất khó tại vị. Vị linh mục sẽ đề nghị lên ông Cố vấn chỉ đạo Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia (ông Ngô Đình Cẩn) có biện pháp (hoặc thuyên chuyển hoặc cách chức).
Vì cảm thông uy quyền ngầm của các vị Linh mục, nên các Tỉnh, Quận trưởng thời nhà Ngô không có ai gan làm trái ý những yêu cầu, đề nghị của các vị Linh mục. Nhiều vùng Linh mục đi giảng đạo nơi nào, có thể yêu cầu Xã trưởng cho mượn Trụ Sở Xã, triệu tập dân xã v.v... Trong khi đó các tôn giáo khác muốn hội họp phải xin phép khó khăn.
Nhiều Linh mục còn lộng hành hơn nữa là nhận đơn kiện cáo hoặc thỉnh nguyện của các con chiên, rồi phê vào đơn, đưa đến Quận trưởng bảo xử theo ý của Linh mục.
Người ta rỉ tai nhau cho biết các Cha rất có thế lực. Cứ vào Công giáo sẽ như ưu dân, sẽ được đề bạt v.v...
Có nhiều Linh mục tổ chức Hội chợ, tổ chức sổ số Tombola không cần giấy phép Bộ Nội Vụ. Khi tiêu thụ Tombola, các Linh mục đã nhờ các Quận trưởng gởi cho các xã bán. Nhiều xã đã xuất công quỹ để mua Tombola ủng hộ các Cha.
Người viết biết rất rõ có một nhà thờ ở một tỉnh miền Trung, do Tỉnh trưởng dùng uy quyền chiếm trên 2 mẫu đất công, ở một địa điểm tốt đẹp và lươn lẹo dùng phương tiện công quỹ của tỉnh để xây cất tòa nhà thờ đồ sộ ấy. Công việc nửa chừng thì ông Diệm đổ, viên Tỉnh trưởng bị bắt và nhà thờ xây cất nửa chừng phải bỏ dở.
Còn biết bao nhiêu tranh chấp lặt vặt phi lý như những thắng cảnh từ lâu vốn là của Phật giáo như Núi Bút Quảng Ngãi, Ngũ Hành Sơn Quảng Nam, chính quyền địa phương đã muốn giúp các linh mục thiết lập nhà thờ ở những nơi ấy nhưng đã bị Phật tử phản ứng quyết liệt.
Thời gian thuận lợi 1954-1958 bất kỳ ai cũng có thể cầm quyền làm bằng hoặc hơn ông Diệm. Không cần ông Diệm chống Pháp, Pháp cũng rút, vì Hiệp định Genève đã quy định, và vì Pháp đã ký kết với chính phủ Bảo Đại giao trả độc lập cho Việt Nam. Trước khi ông Diệm về chấp chánh đã có gần 40 nước trong thế giới Tự Do công nhận và bang giao với Việt Nam kể cả Anh, Mỹ và Tòa Thánh Vatican.
Nếu nói những khó khăn của ông Diệm thời đó, thì cũng phải nói đến những thuận lợi, tiện nghi của ông Diệm trong việc tiếp thu một chính quyền có sẵn tất cả và Đất Nước Đã Chấm Dứt Chiến Tranh.
Đến đây kẻ viết muốn hỏi nhỏ quý vị đang suy tôn ông Diệm: Ông Diệm từ một đường quan Tri Huyện, lần lượt lên Quản Đạo, Tuần Vũ rồi Thượng thư Bộ Lại, nếu thật sự chống Pháp, sao đường công danh của lãnh tụ quý vị lại hanh thông như vậy? (trong thời Pháp thuộc muốn xin một chân giáo viên mà có thành tích chống Pháp bị ty Liêm Phóng (Service de Sureté phê “Avis défavorable” vào hồ sơ là đương sự xem như... “lúa”, chỉ có về nhà... xua gà cho vợ). Vậy tại sao đường công danh của “chí sĩ” Ngô Đình Diệm lại lên vùn vụt?
Việc từ quan của ông Diệm chỉ vì chống nhau với ông Phạm Quỳnh đương triều, nhưng ở đây người viết không đề cập đến vấn đề đó.
Ông Diệm tự phong mình là người thành tín quân tử, nhưng việc truất phế Bảo Đại là Đại Phản Phúc.
Nếu nói chống ông Bảo Đại, thì ai cũng có quyền chống, nhưng trừ ông Diệm. Vì cha, anh ông Diệm và cả ông Diệm vốn là tôi con nhà Nguyễn. Ông Bảo Đại trên nguyên tắc đã tín nhiệm ông Diệm, đã phú thác việc nước cho ông Diệm và ông Diệm đã phục mệnh.
Trước và sau khi truất phế ông Bảo Đại, ông Diệm, (qua Bộ Thông Tin) đã thuê bọn bồi bút (hầu hết báo chí thời Diệm) mở một chiến dịch dài hạn đả kích, bêu xấu, vu cáo nhục mạ ông Bảo Đại một cách tàn tệ.
Thiết nghĩ một người có lương tâm tối thiểu, không ai nỡ hành xử như thế!
Cũng phải khen việc “Trưng cầu dân ý” tổ chức thật chu đáo. Đến Bà Từ Cung mà cũng bỏ phiếu truất phế ông Bảo Đại!
Tóm lại: Ông Diệm Đã Làm Hỏng Đại Cuộc, đã sát hại nhiều phần tử quốc gia, đã tự tâm thiên vị làm hư Công giáo, đã kỳ thị khủng bố Phật giáo đã Lường Gạt Phản Bội Và Vô Cùng Tham Quyền Cố Vị. (Ông đã vận động Quốc Hội thông qua đạo luật cho ông ứng cử lần thứ 3).
Do những hành động tham nhũng, đàn áp, khủng bố đại thất nhân tâm như đã kể trên, của bộ máy chính quyền gia nô, do ông lãnh đạo, đã xô đẩy hàng hàng lớp lớp thanh niên, phụ lão, những người vốn không phải Cộng Sản đã ngã về Cộng Sản.
Ông Diệm hô hào chống Cộng, độc quyền chống Cộng, cho đến đầu năm 1963 thì toàn quốc ở trong cái thế cài răng lược với Cộng Sản và ông đã tuyên bố trước đó: “Tổ Quốc Lâm Nguy!”
Sau khi ông chết, thì tay chân tôi tớ ông vẫn cầm quyền. Hậu quả của Ngô Đình Diệm để lại sau 63 là một ngôi nhà mục nát sửa sang gì cũng khó lòng đứng vững.
Bàn cờ nhà Ngô đã đi bậy bạ... Khi sang tay khác đánh cờ, nếu gặp phải tay cao thủ thì còn có thể gỡ gạt..., nhưng không may, bàn cờ lại rơi vào các tay thấp như vịt, cho nên họ chỉ loay hoay lên Tướng, xuống Sĩ và giục Tốt mà thôi!
Trách Mỹ lật đổ nhà Ngô ư? Mỹ bồng nhà Ngô lên thì Mỹ lại hạ nhà Ngô xuống, có gì mà đáng trách.
Sau khi ông Diệm chết, tay chân nhà Ngô còn trong quân đội, trong chính quyền đã âm mưu phá nát thêm Quốc gia, bí mật mở cửa cho Cộng Sản thao túng vì muốn chứng tỏ: Không có “Cụ” của chúng thì tai hại thế đó.
(Đây là một hiện tượng nguy hiểm cho quốc gia sau ngày Diệm đổ mà ít ai để ý).
Chỉ tiếc Dương Văn Minh nhu nhược, đã lật Diệm mà chỉ lật nửa chừng, chỉ hạ cái chóp bu còn tay chân vẫn để y nguyên như cũ, sau Diệm có thể gọi là “Diemist sans Diem”.
Cuộc lật đổ nhà Ngô năm 1963 đáng lý là một cuộc cách mạng vì đã nối tiếp tinh thần quật khởi chống bạo quyền của dân Việt, nối tiếp những hành động đại nghĩa hy sinh liên tục của các chiến sĩ quốc gia dưới thời Diệm trị.
Ta có nên kể lại từ một thanh niên Cao Đài hành động như một Kinh Kha tại Ban Mê Thuột năm 1955, từ các sĩ quan Nhảy Dù bao vây dinh Độc Lập 1960, từ 2 phi công ưu tú Phạm Phú Quốc, Nguyễn Văn Cử bắn phá dinh Độc Lập 1962 và biết bao nhiệm vụ mưu sát bạo chúa bất thành, mà chỉ có mật vụ nhà Ngô mới biết rõ, cho đến khi Đại úy Nhung và Thiếu tá Nghĩa căm phẫn trả thù cho các đồng chí của họ.
Lật Diệm năm 1963 đáng lý là một cuộc cách mạng vì đã giải thoát hàng vạn người quốc gia trong các ngục tù trên toàn quốc, giải thoát hàng triệu nhân dân đang nghẹt thở dưới một chế độ thối nát học thói độc tài. Toàn dân đã bừng bừng phấn khởi... Nhưng hỡi ơi hương lửa cách mạng chỉ bừng lên vài ba tuần đầu rồi dần dần tắt ngủm, chỉ vì người cầm đầu Dương Văn Minh nhu nhược chỉ muốn cuộc cách mạng ấy là một binh biến hay chỉnh lý thôi.
Nhiều người bào chữa cho ông Diệm: Ông Diệm rất tốt chỉ vì tay chân ông làm sai. Lối bào chữa này e giống Cộng Sản: Hồ Chủ tịch luôn luôn sáng suốt chỉ có cấp dưới làm bậy!
Dân tộc Việt Nam là một dân tộc hỉ xả, uất hận bao nhiêu nhưng khi đối phương đã xuống ngựa thì sẵn sàng làm lành với nhau quên đi hết mọi lỗi lầm thù xưa oán cũ. Nhưng cây muốn lặng gió mà gió chẳng dừng, ta bất đắc dĩ khơi lại đống tro tàn để phơi bày sự thật.
Vì là chứng nhân nên chẳng muốn ẩn danh.

Lê Nguyên Long